MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - LYCIUM SINENSE MILL. ( KỶ TỬ/ CỦ KHỞI)
KỶ TỬ/ CỦ KHỞI
Tên khoa học: Lycium sinense Mill. họ Cà (Solanaceae).
Tên khác: Rau củ khởi/ Rau khởi - Địa cốt - Câu kỷ tử - Câu khởi (TQ) - Lyciet (Pháp) - Barbary Wolberry fruit (Anh) - Chinese Wolberry root bark - Goji Berry (Anh).
Địa cốt bì - Vỏ rễ của cây Củ khởi (Cortex Lycii radicis) phơi hay sấy khô.
Bộ phận dùng:
1. Trái chín của cây Củ khởi (Fructus Lycii) phơi hay sấy khô, gọi là Câu kỷ tử. Đã được ghi vào DĐVN (1983), DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cây Củ khởi là một loài cây nhỏ, cao 0,50-1,50m, cành nhỏ, uốn cong cần câu, thỉnh thảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá mọc so le, có khi mọc vòng, phiến lá nhỏ hình mũi mác, cuống ngắn, mép nguyên. Hoa nhỏ mọc đơn độc ở lẽ lá hoặc có một số hoa mọc tụ lại, cánh hoa màu tím đỏ. Màu hoa: tháng 6-9. Trái mọng hình trứng dài 0,5-1,5cm, đường kính 4-8mm, khi chín màu vàng đỏ hay đỏ sẫm, trong chứa nhiều hạt nhỏ, hình thận. Mùa trái tháng 7-10.
Trước đây, cây Củ khởi chỉ được trồng một ít để lấy làm rau ăn (trong nhân dần dùng để chữa ho sốt) gần đây ta đã phát triển trồng giâm cành rất dễ mọc. Sau 3 năm thì được thu hoạch. Thời kỳ thu hoạch kéo dài 20-30 năm, cao nhất vào năm thứ 10. Lá có thể làm rau ăn. Cây có tác dụng chống xói mòn đất, rất chịu hạn, ra hoa kéo dài hàng tháng, là nguồn mật tốt cho ong, mật thuộc loại ngon. Cây dễ trồng khắp mọi nơi, cũng có thể trồng bằng hạt.
I. Trái cây củ khởi (Câu kỷ tử):
Thu hái chế biến: Thu hái vào 2 mùa hạ, thu. Khi trái chín, hái lấy, bỏ cuống, tãi mỏng pơi trong râm cho da trái hơi nhăn thì mới phơi nắng tới khi da khô căng, mà thịt mềm nhuyễn là được. Nếu trời mưa có thể sấy nhẹ lửa (30-45°C) cho khô, rồi xông sinh (dùng lưu hoàng đốt lấy khói để xông thuốc) thì lên màu đỏ đẹp.
Câu kỷ tử: Không mùi, vị ngọt hơi chua, nếu ăn thì nước bọt biến thành màu đỏ tươi, mềm nhuyễn là tốt. Thủy phần dưới 15p100.
Tránh nhầm lẫn với trái cây Gió niệt (Wilkstroemia indica C.A Mey họ Trầm - Thymelaceae) có độc.
Thành phần hóa học:
Câu kỷ tử chứa độ 0,009p100 chất betain C5H11O2N.
Theo một số tác giả còn có các chất lycin, cholin, chất béo, protein, zeaxanthin, physalein, caroten, vitamin A, B1, B2, C, acid nicotinic, calci, phospho, sắt v.v...
Công dụng, liều dùng: Câu kỷ tử: theo Đông y vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh Phế, Can, Thận.
Có tác dụng bổ gan thận, nhuận phổi, mạnh gân cốt, sáng mắt.
Dùng chữa các chứng bệnh: yếu gan, yếu thận (can thận âm hư) đau lưng mỏi gối, hoa mắt, mờ mắt, thị lực kém, chảy nhiều nước mắt, ho lao, di tinh, tiêu khát (đái tháo, khát nước nhiều, trẻ em chậm lớn, chậm biết đi).
Theo Tây y, cây kỷ tử kích thích sự tạo huyết, kích thích hệ miễn dịch, kích thích sự tăng trưởng, giảm glucose - huyết, giảm cholesterol huyết, giảm huyết áp, giúp tiết cholin, Betain có tác dụng bảo vệ gan, chống nhiễm mỡ gan, chữa tăng huyết áp.
Liều dùng: 5-10g, có thể chế thành thuốc viên, sắc hoặc ngâm rượu uống, khi dùng bỏ cuống và tai trái.
Lưu ý: Người nóng nhiều, hoặc yếu dạ, hoặc ỉa chảy không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Bổ thận, chữa người yếu mệt, đau lưng, dương sự kém, hao tổn tinh khí:
Câu kỷ tử 10g
Hoàng tinh chế 10g
Nghiền nhỏ, luyện với mật ong, làm thành viên, uống lúc đói.
Bài số 2: Chữa di tinh:
Kỷ tử 6g
Thục địa 3g
Phục linh 3g
Nhục thung dung 3g
Cam thảo 2g
Ngũ vị tử 3g
Nhân sâm 3g
Sinh khương 2g
Sắc uống.
Bài số 3: Chữa chứng thận âm hư, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, mờ mắt:
Câu kỷ tử 9g
Cúc hoa 9g
Thục địa 12g
Hoài sơn 6g
Phục linh 4,5g
Trạch tả 4,5g
Mẫu đơn bì 4,5g
Tán mịn, luyện với mật ong làm hoàn. Mỗi lần uống 9g, ngày 2 lần, với nước muối loãng, còn hơi nóng.
Bảo quản: Câu kỷ tử dễ bị sâu mọt. Để nơi khô ráo, râm mát, có thể sấy sinh cho đỏ. Nếu bị mốc thì phun bằng rượu sẽ đỏ.
Biệt dược (phối hợp): Thất bảo mỹ nhiệm đơn.
Bài thuốc Thất bảo mỹ nhiệm đơn (Thiệu ứng tiết)
Thành phần bài thuốc:
Hà thủ ô 300g
Đương qui 300g
Phá cố chỉ 160g
Bạch linh 300g
Ngưu tất 300g
Kỷ tử 300g
Thỏ ty tử 300g
Cách chế: Hà thủ ô trộn với đậu đen, 9 lần chưng, 9 lần phơi, Bạch linh trộn sữa sao, Ngưu tất tẩm rượu chưng chung với Hà thủ ô từ lần thứ 7 về sau, Phá cố chỉ trộn với Mè đen sao qua, tất cả đều tán nhỏ luyện mật làm hoàn 10g/1 hoàn. mỗi lần uống 2 hoàn trước khi đi ngủ.
Tác dụng: Bổ thận, tráng dương, ích tinh, bổ khí huyết.
Theo sách thì đời nhà Minh ở Trung Quốc niên hiệu Gia Tĩnh có vị thầy thuốc tên là Thiệu ứng Tiết đem dâng vua Bài thuốc Thất bảo mỹ nhiệm đơn (Thiệu ứng tiết), vua vốn bất lực, sau khi uống thuốc rồi sinh liên tục được 2 hoàng tử cho nên được truyền bá khắp dân gian.
Bài thuốc được dùng chữa các chứng vô sinh nam, sinh dục suy yếu, di tinh liệt dương, phụ nữ bang huyết đới hạ. Hiện tại còn dùng cho bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chân tay tê dại. Có người dùng chữa bệnh đái đường có kết quả tốt.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Ngưu tất có tính hoạt huyết tương đối mạnh và đi xuống, là vị thuốc kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Phá cố chỉ chỉ kỵ tiết heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
II. Củ khởi (Địa cốt bì):
Thu hái chế biến: Địa cốt bì: Thu hoạch khoảng cuối thu đầu xuân, sau khi đã hái trái. Đào lấy rễ, rửa sạch đất cát, bóc lấy vỏ, phơi khô. Muốn làm cho đẹp, cắt rễ thành từng đoạn 6-10cm, dùng dao rạch cho tới gỗ, đem đồ lên thì vỏ rễ sẽ bong ra. Phơi hay sấy khô.
Địa cốt bì: ít mùi, vị hơi ngọt.
Loại địa cốt bì mảnh to, thịt dày, không có lõi gỗ và tạp chất là tốt. Thủy phần dưới 11p.100.
Tránh nhầm lẫn với Địa cốt bì nam là rễ cây Đốm còn gọi là cây Đại thanh, cây Sưng ma (chưa rõ tên khoa học có thể là cây Hoa tiêu - Tần tiêu - Zanthoxylum bungeanum Max. họ Cam, Rutaceae) mọc ở Hà Tây.
Thành phần hóa học:
Địa cốt bì: Có độ 0,008p100 alkaloid, 1,07p100 saponin, không có phản ứng anthraglucosid, chất đắng, chưa rõ hoạt chất.
Công dụng: Địa cốt bì: Theo Đông y, vị ngọt, nhạt, tính lạnh, vào 4 kinh: Phế, Can, Thận, Tam tiêu.
Có tác dụng trừ nóng, làm mát máu, sinh tân dịch, giải khát.
Dùng chữa các chứng bệnh ho ra máu, nhức xương, tiêu khát (đái tháo), lao nhiệt ra mồ hôi.
Liều dùng: 5-10g, sắc uống.
Lưu ý: Người không nóng, yếu dạ, lạnh bụng không được dùng.
Địa cốt bì thường dùng phối hợp với Tang bạch bì chữa ho do phổi nóng.
Quy bản, Sinh địa, Bạch thược, chữa chứng âm hư nóng bên trong.
Thanh cao, Tri mẫu, Sơn chi tử chữa chứng nóng hâm hấp trong xương mà không có mồ hôi.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa lao phổi, nhức xương, nóng hâm hấp trong xương, sốt nhẹ, mồ hôi trộm và các chứng sốt nhẹ khác:
Địa cốt bì 9g
Miết giáp 9g
Tri mẫu 9g
Ngân sài hồ 12g
Bối mẫu 6g
Đương quy 9g
Sắc uống.
Bài số 2: Chữa chứng ho do nhiệt ở phổi. Viêm phế quản, viêm phổi, sốt, ho:
Địa cốt bì 9g
Vỏ rễ dâu 9g
Cam thảo sống 6g
Gạo tẻ ngon 15g
Sắc uống.
Bài số 4: Chữa chứng tăng huyết áp:
Địa cốt bì, vỏ rễ dâu tằm mỗi thứ 120g. Nhức đầu thêm Cúc hoa 15g hoặc cây Ké đầu ngựa 24g.
Sắc uống.
Lưu ý: Địa cốt bì dùng để chữa hư nhiệt thì tốt. Trường hợp ngoại cảm phong hàn mà sốt thì không uống.
Mẫu đơn bì và địa cốt bì đều trừ nhiệt ở phần âm, chữa ho lao, nhức xương nóng hâm hấp bên trong. Nhưng mẫu đơn bì lạnh mà vị cay thích hợp với chứng không có mồ hôi, còn địa cốt bì lạnh mà vị ngọt, thích hợp với chứng có mồ hôi.
Bảo quản: Địa cốt bì: để nơi khô ráo, thoáng gió.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét