MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - DOCYNIA INDICA (WALL.) DECNE (SƠN TRA)
SƠN TRA (Cây táo mèo) 山楂 Shānzhā/ 山茶 Shānchá
Tên khoa học: - Docynia indica (Wall.) Decne, họ Hoa hồng (Rosaceae), còn gọi là Chitôdi (H'Mông).
Cây chua chát: Malus doumer (Bois) A. Chev. họ Hoa hồng, còn gọi là cây Sán sá (Tày).
Bộ phận dùng: Trái chín, đã thái lát (phiến) và chế biến khô của hai cây táo mèo và chua chát nói trên (Fructus Docyniae).
Đã được ghi vào DĐVN (1983).
Mô tả: Cây táo mèo: cây thân gỗ, nhỡ cao 5-10cm, khi cây còn non, cành cây có gai. Phiến lá đa dạng. Khi cây non, lá mọc cách, xẻ 3-5 thuỳ, mép răng cưa không đều, khi cây lớn, phiến lá hình trứng nhọn dài 5-10cm, rộng 2-4cm, mép gần như nguyên hơi khía răng. Bông 5 cánh màu trắng. Trái hình trái ổi, đường kính 3-5cm, da nhẵn, khi chín màu vàng chanh, mùi thơm mát dịu, vị chua hơi chát. Bông tháng 3, trái tháng 9-10. Cây táo mèo mọc hoang nhiều ở khu Tây Bắc nước ta: Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Nghĩa Lộ...
Cây chua chát: Cây thân gỗ, cao to 10-15m, cây non có gai. Lá nguyên hình mác, dài 6-15cm, rộng 3-6cm, mép khía răng cưa. Bông 5 cánh, màu trắng. Trái hình cầu hơi dẹt, khi chín màu vàng lục, đường kính từ 5-7cm, vị chua hơi chát. Bông tháng 2 trái tháng 9. Cây chua chát mọc hoang vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, nhân dân mang sang Trung Quốc bán với tên sơn tra.
Thu hái chế biến: Thu hái trái chín ương, cắt ngang trái, bỏ phần chỏm, có vết đài sót lại, phơi hoặc sấy khô là được.
Thủy phần dưới 13p.100.
Tỉ lệ nâu đen dưới 1p.100.
Thành phần hóa học: Trong trái sơn tra Việt Nam, có vị chua, ngọt, tính hơi ấm, vào các kinh: Tỳ, Vị, Can. Có tác dụng: giúp tiêu hoá, hành ứ, trừ đờm. Chữa các chứng bệnh: bụng đầy trướng, đau, ăn không tiêu, bụng kết hòn kết cục, đàm ẩm, phụ nữ sản hậu ứ huyết đau bụng.
Liều dùng: 10-20g. Sắc uống hay tán bột làm thuốc viên.
Lưu ý: Còn một loại táo mèo khác: Docynia delavayi (Franch.), Schneid, cùng họ Hoa hồng, mọc hoang vùng Vân Nam (TQ) và có thể ở biên giới Lào Cai. Loài này lá già vẫn có lông ở mặt dưới, mép lá nguyên. Trái cũng dùng như táo mèo.
Sơn tra Trung Quốc (khác nhiều với sơn tra Việt Nam): Crataegus pinnatifida Bge, cùng họ Hoa hồng (xem bài sơn tra Trung Quốc).
Bài thuốc:
Sơn tra Việt Nam được dùng thay thế Sơn tra bắc (Sơn tra Trung Quốc).
Bài số 1: Cao lỏng Sơn tra:
Dùng Sơn tra 1kg rửa sạch, bỏ hạt, sắc với 3L nước tới khi còn 1L. Chắt lấy nước đầu. Sắc thêm với 3L nước nữa tới khi còn 0,5L, chắt lấy nước hai. Trộn 2 nước, cô lại tới khi còn khoảng 1L. Thêm 0,8kg kẹo mạch nha hoặc đường, hòa tan rồi cô đặc còn 1L thành phẩm. Thêm 40ml rượu ngâm Trần Bì hoặc Đại Hồi. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa.
Bài số 2: Kích thích tiêu hóa, bổ tỳ vị:
Sơn tra 25g
Củ Sả 25g
Chỉ xác 25g
Vỏ Vối 25g
Trần bì 25g
Hương phụ 40g
Gừng tươi 20g
Phèn phi 10g
Củ Sả 25g
Chỉ xác 25g
Vỏ Vối 25g
Trần bì 25g
Hương phụ 40g
Gừng tươi 20g
Phèn phi 10g
Phơi khô, tán thành bột; người lớn mỗi lần uống 2 thìa cà phê, trẻ em uống ½-1 thìa cà phê với nước ấm, uống 2-3 lần mỗi ngày.
Bài số 3: Chữa ra mồ hôi trộm:
Dùng hạt Sơn tra 5-10g, giã nát, sắc với 200ml nước tới khi còn 50ml, uống một lần mỗi ngày.
Bài số 4: Chữa tích trệ, đầy bụng, khó tiêu, nôn ợ
Sơn tra 20g
Chỉ xác 12g
Hậu phác 8g
Chỉ xác 12g
Hậu phác 8g
Sắc nước uống.
Hoặc:
Sơn tra 10g
Chỉ thực 6g
Trần bì 5g
Hoàng liên 2g
Sơn tra 10g
Chỉ thực 6g
Trần bì 5g
Hoàng liên 2g
Sắc cùng 6 chén nước tới khi còn 2 chén, chia làm 3 lần uống trong ngày.
Bài số 5: Trị tiêu chảy:
Sơn tra 10g tán thành bột mịn, pha cùng nước sôi để uống.
Với trẻ em, nấu thành siro, mỗi lần dùng 5-10ml, ngày uống 3 lần.
Bài số 6: Chữa ợ chua, ợ hơi, ợ nóng:
Sơn tra sống 20g
Sơn tra sao vàng 20g
Sắc uống trong ngày.
Bài số 7: Trị kiết lỵ:
Điều trị kiết lỵ mới phát: Sắc Sơn tra 30g với nước tới gần cạn, thêm Đường mía 30g, sắc đến đặc, uống khi còn nóng.
Trị kiết lỵ cấp tính và viêm đại tràng cấp tính: Dùng Sơn tra (sao cháy sơ qua) 60g trộn đều với rượu 30 ml, sao tiếp tới khô. Sắc với nước trong 200ml 15-20 phút, lọc lấy phần nước. Thêm Gừng tươi 60g và sắc đến khi nước sôi lên lần nữa thì tắt bếp, uống nóng.
Hoặc:
Sơn tra (sao cháy) 120g
Bạch biển đậu hoa 30g
Sắc với 5 phần nước tới khi còn 2 phần, uống nóng.
Sơn tra (sao cháy) 120g
Bạch biển đậu hoa 30g
Sắc với 5 phần nước tới khi còn 2 phần, uống nóng.
Bài số 8: Trị Lipid máu cao:
Trộn Sơn tra và Mạch nha cô đặc, tỷ lệ 1:1. Mỗi lần dùng 30g để uống, mỗi ngày uống 2 lần, trong 2 tuần.
Bài số 9: Cách ngâm rượu táo mèo:
Táo mèo (tươi)
Táo mèo (tươi)
Rượu trắng
Đường
Đường
Mật ong
Bình đựng (nên sử dụng bình thủy tinh hoặc bình gốm).
Táo mèo đem rửa sạch, loại bỏ những quả dập nát, quả thối.
Cắt bỏ 2 đầu, cắt đôi quả táo mèo, ngâm với nước muối pha loãng, sau đó vớt ra để ráo.
Chuẩn bị bình sạch, khô.
Cho táo mèo vào bình, cứ một lớp táo mèo thêm 1 lớp đường, 1 lớp mật ong, đậy nắp bình và để trong khoảng 2 tuần.
Sau 2 tuần, chắt lấy nước cốt, cho vào chai hoặc hũ bằng thủy tinh để bảo quản. Sau đó, đổ rượu vào hũ đựng xác táo mèo theo tỷ lệ 1 phần táo, 4 phần rượu. Đây kín nắp và để nơi thoáng mát để ủ rượu.
Sau 3-4 tháng có thể sử dụng.
Phần nước ngâm táo mèo có thể trộn cùng với rượu táo mèo để sử dụng, giúp tăng thêm vị ngọt.
Uống nhiều nước táo mèo có tốt không?
Táo mèo giàu chất chống oxy hóa, giúp bổ sung các loại vitamin và khoáng chất cho cơ thể. Tuy nhiên, giống như các loại nước khác, chỉ nên sử dụng nước táo mèo với một lượng vừa đủ, không nên tiêu thụ quá mức.
Bài số 10: Cách ngâm rượu từ táo mèo khô:
Táo mèo khô
Rượu nếp (40-50 độ)
Bình đựng (làm bằng thủy tinh hoặc bình gốm).
Rượu nếp (40-50 độ)
Bình đựng (làm bằng thủy tinh hoặc bình gốm).
Táo mèo rửa sạch, để ráo.
Cho táo vào bình thủy tinh sạch, thêm rượu với tỷ lệ 1kg táo mèo khô, thêm 5 lít rượu.
Đậy kín bình.
Ngâm khoảng 3 tháng đã có thể sử dụng.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét