MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - AMOMUM XANTHIOIDES WALL. (SA NHÂN)
SA NHÂN 砂仁 Shā rén/ 砂姜 Shā jiāng
Tên khoa học: Amomum xanthioides Wall. họ Gừng (Zingiberaceae).
Tên khác: Gừng cát - Mắc nẻng/Mác nẻng (Tày) - Mé tré bà/ Mè tré bà - Sa ngần (Dao) - Co nẻnh (Thái) - Pa đoóc (K'Dong) - La vê (Ba Na) - Sa nhân đỏ - Sa nhân thầu dầu - Dương xuân sa - Súc sa mật - Villious Amomum Fruit (Anh).

Bộ phận dùng:
1. Cả trái già đúng độ (không non cũng không già quá, phơi khô của cây sa nhân (Fructus Amomi Xanthioidis).
DĐTQ (1997) ghi: Fructus Amomi dùng 3 cây: (ta đều có): A. Villosum Lour. = Sa nhân; A. Villosum Lour. var. xanthioides T.L Wu et Senjen = Sa nhân gai; A. Longiligulare T.L.Wu = Sa nhân lưỡi dài.
2. Khối hạt còn lại (thường gọi là nhân) sau khi bỏ lớp vỏ ngoài của sa nhân (Semen Amomi xanthioidis).
Đã được ghi vào DĐVN (1983).
3. Vỏ trái sa nhân (Pericarpium) gọi là Súc bì.
Mô tả: Cây Sa nhân là một cỏ nhỏ, cao 1-2m, hình dáng gần giống cây riềng (Alpinium officinarum Hance, cùng họ) nhưng thân - rễ không phát triển thành củ như riềng. Lá mọc so le, mặt nhẵn bóng, màu xanh sẫm, dài 30-45cm, rộng 4-6cm. Ra bông vào mùa hè (tháng 4-5), thành 3-6 chùm dưới gốc, mỗi chùm 4-6 bông trắng thơm. Cây Sa nhân ra bông từ thân rễ sát mặt đất.
Cận cảnh bông hoa nhỏ cho thấy tràng bông màu trắng với một chút sọc vàng nhạt và đỏ ở giữa, trông rất thanh lịch.
Trái mọc sau khi bông nở trông như thế này: hình cầu, có bề mặt nhọn và có màu nâu đỏ.
Đây là những trái đã thu hoạch, vẫn còn nguyên cuống bông ban đầu.
Trái nang hình bầu dục, to bằng đầu ngón tay, bên trong có 3 mảnh hạt. Trái chín vào khoảng tháng 7-8. Cây Sa nhân mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi vùng núi nước ta: Khu Tây Bắc, Hòa Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Thanh Hóa v.v...
Thu hái chế biến: Mùa thu hái tháng 7-8. Khi trái già, cần chú ý theo dõi thu hái kịp thời vụ. Khi vỏ ngoài màu vàng sẫm, kẽ gai đã thưa, bóp trái thấy còn cúng, lột ra thấy tróc vỏ, hạt hơi có màu vàng, ở giữa có chấm đen, hay màu hung hung, nhấm thấy chua và chất cay nồng là sa nhân đúng tuổi hái được. Phân chia từng loại: Trái sa nhân già, trái bánh tẻ, trái non, trái đã chín thành đường. Đem phơi khô hoặc sấy nhẹ lửa cho khô. Cũng có thể lột lấy vỏ để riêng, lấy nhân, rồi phơi khô hoặc sấy nhẹ.
Sa nhân mùi thơm tinh dầu, vị cay mát, hơi đắng. Loại sa nhân trái to, khô chắc hạt, nhân mập, màu nâu, có một lớp trắng bao bên ngoài, không vụn nát, không mốc hoặc lẫn tạp chất là tốt.
Sa nhân phải nguyên hạt hoặc vỡ đôi. Mảnh vụn nát (hạt rời) không quá 10p.100.
Tỉ lệ hạt non: không quá 2p.100.
Thủy phần an toàn dưới 13p.100.
Dược liệu phải chứa ít nhất 1p.100 tinh dầu. Hiện nay ta chia làm 5 loại sa nhân có giá trị khác nhau:
1. Sa nhân hạt cau: hạt già mẩy, mùi rất thơm, vị rất the cay, màu nâu sẫm là tốt hơn cả.
2. Sa nhân non: hạt còn non, hay bánh tẻ, không mẩy, nhăn nheo, màu vàng sẫm, ít thơm cay.
3. Sa nhân vụn: gồm 3 loại (cau + non + đường) vỡ vụn hoặc phơi sấy không đúng quy cách, kém cay (còn gọi là sa nhân cứt gián).
4. Sa nhân đường: Hạt đã chín, màu đen, ít the cay, vị ngọt, ít thơm, sờ thấy ẩm ướt, dù đã phơi khô, cũng vẫn mềm, là kém.
5. Sa nhân sô: gồm cả 4 loại trên, trong đó sa nhân hạt cau và sa nhân non phải có trên 80p.100.
Thành phần hóa học:
Trong sa nhân, có chứa 1,7-3p.100 tinh dầu. Thành phần chủ yếu là d-camphor, d-limonen, camphen, bornylacetat, linalol, nerolidol.
Công dụng:
Theo Đông y, sa nhân vị cay, tính ấm có tác dụng hành khí (giúp hô hấp), điều trung (làm ấm bụng, giúp tiêu hóa, giảm đau, an thần, chống nôn mửa, an thai.
Dùng để chữa các chứng bệnh bụng đầy hơi, ăn uống không tiêu, đau bụng, nấc nghẹn, nôn mửa, tả lỵ do lạnh, động thai...
Giá trị chữa bệnh của Sa nhân:
Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, kích thích ăn ngon, ấm tỳ, cầm tiêu chảy, điều hòa khí huyết, làm dịu thai nhi.
Lịch sử y học của Sa nhân tím có thể bắt nguồn từ thời nhà Đường, cùng thời với Sa nhân bạch đậu khấu. Nó cũng là một loại thuốc nhập khẩu, thậm chí có thể được vận chuyển đến Trung Quốc trên cùng một con tàu. Tuy nhiên, ban đầu người xưa đã hiểu lầm về nguồn gốc của Sa nhân tím, cho rằng nó đến từ Ba Tư (ngày nay là Iran). Thực tế, Sa nhân tím có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Sự hiểu lầm này có thể xuất phát từ việc nó được dâng lên nhà Đường thông qua Ba Tư.
Sa nhân tím có nguồn gốc từ Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Thái Lan và Indonesia. Ấn Độ cổ đại đã sử dụng nó từ lâu, gọi là Suksmaila . Vào thời nhà Đường, người ta dịch trực tiếp từ cách phát âm của nó thành "缩砂密" (suō shā mì), đây là tên gốc của Sa nhân tím. Trong các văn bản thảo dược cổ, Sa nhân tím thường được gọi là "缩砂" (suō shā) hoặc "缩砂密" (suō shā mì). Vì Sa nhân tím chủ yếu sử dụng phần nhân, nên nó còn được gọi là "缩砂仁" (suō shā rén), nhưng sau này được rút gọn thành "砂仁" (shā rén), và đây trở thành tên chính thức.
Khi du nhập vào Trung Quốc, sa nhân ban đầu được sử dụng như một loại gia vị. Nhờ hương thơm nồng nàn, khả năng thanh nhiệt, kích thích ăn uống, sa nhân thường được người xưa dùng để làm ấm dạ dày, hỗ trợ tiêu hóa, và được coi là " thần dược bổ tỳ, điều hòa vị ". Công thức cơ bản để bổ tỳ là bài thuốc Tứ Quân Tử Đường. Thêm vỏ quýt khô và thông đỏ (Pinellia ternata) sẽ tạo thành bài thuốc Lục Quân Tử. Thêm sa nhân (Aucklandia lappa) và sa nhân sẽ tạo thành bài thuốc Tứ Quân Tử (Xiang Sha Liu Jun Zi), có tác dụng điều trị tỳ vị suy nhược, chán ăn và đầy bụng sau ăn. Hiện nay, dựa trên bài thuốc Lục vị tử hương, người ta đã phát triển nên một loại thuốc cổ truyền Trung Quốc: Tương sát dương vị hoàn, một bài thuốc tốt để điều hòa và bổ tỳ vị, được Tiêu Dũng ưa dùng. Chữ "Amy" trong bài thuốc này là chỉ cây Sa nhân.
Cố giáo sư Lý Ngọc Kỳ cũng thường xuyên sử dụng thảo dược Sa nhân. Nó là vị thuốc không thể thiếu trong các trường hợp đau dạ dày, đầy hơi, buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy. Công dụng của Sa nhân luôn gắn liền với hương thơm của nó. Ngoài tác dụng thanh nhiệt, nó còn có tác dụng thông kinh hoạt lạc, làm ấm tỳ vị. Vì vậy, không ngoa khi nói đây là vị thuốc bổ tỳ, điều hòa vị.
Các thầy thuốc cổ xưa khi bàn về tác dụng của Sa nhân tím đã nói rằng nó cũng đi vào kinh thận, và nhờ hương thơm nồng nàn, nó có thể bổ thận. Nó thường được kết hợp với Phellodendron amurense và Phục linh. Tôi có rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này, vì vậy tôi rất mong nhận được sự hướng dẫn của bạn. Sa nhân tím cũng có tác dụng an thai, điều trị dọa sảy thai. Tác dụng an thai của nó bắt nguồn từ khả năng điều hòa khí huyết và cầm nôn; nó có thể được sử dụng cho các trường hợp nôn mửa nghiêm trọng trong giai đoạn đầu thai kỳ. Tuy nhiên, với tình hình y tế phức tạp hiện nay, rất ít bác sĩ dám kê đơn cho phụ nữ mang thai.
Do mùi thơm của Sa nhân tím rất dễ bay hơi, nên nó thường được bán nguyên vỏ. Sa nhân tím được bảo quản trong các hộp đựng thuốc chắc chắn sẽ còn nguyên vỏ; vỏ thường được giã nát trước khi sắc để lộ phần nhân. Khi cho vào thuốc sắc, thường nên cho vào sau khi đã ninh nhỏ lửa. Vỏ của Sa nhân tím cũng được dùng riêng làm thuốc, gọi là vỏ Sa nhân tím, có tác dụng tương tự như quả, nhưng yếu hơn đáng kể.
Liều dùng: 1,6-6g. Để cả vỏ sao vàng sắc uống (có khi bỏ vỏ lấy hạt).
Lưu ý: Có thể chế biến thành Diêm sa nhân (sa nhân chích lấy muối). Lấy 5kg sa nhân rửa sạch và 125g muối, hòa với nước sôi, vừa đủ, trộn đều, sao nhẹ lửa cho hơi khô, lấy ra để nguội sắc uống.
Người thuộc chứng âm hư mà nhiệt không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa người sức yếu, đờm khò khè, nôn mửa, đầy tức yếu dạ:
Mộc hương 2g
Sa nhân 3g
Trần bì 5g
Nhân sâm 3g
Phục linh 3g
Bán hạ chế 3g
Bạch truật 5g
Cam thảo 3g
Gừng tươi vài lát 3g
Sắc uống.
Bài số 2: Chữa phụ nữ động thai, dạ dày suy nhược:
Súc sa nhân 30g nghiền vụn. Nếu nôn mửa uống, mỗi lần 3g, với nước gừng sống. Nếu đầy tức, chảy máu tử cung, mỗi lần uống 9g, với nước cháo.
Bài số 3: Độc vị sa nhân: Chữa lạnh dạ dày nôn ọe:
Sa nhân 30g
Tán bột. Mỗi lần uống 1,5-3g, ngày 3 lần, với nước gừng tươi (nước nóng).
Ghi chú: Ở Vietnam cũng có 2 cây mà DĐTQ ghi dùng là:
- Sa nhân lông: Amomum villosum Lour. cùng họ Gừng (TQ gọi là Dương xuân sa) mọc hoang vùng rừng núi Hà Tây, Thanh Hóa... đến Đồng Nai).
- Sa nhân lưỡi dài (còn gọi Sa nhân tím): Amomum longiligulare T.L.Wu (tên cũ), tên mới là Wurfbainia longiligularis, họ Gừng mọc hoang vùng núi rừng nhiều nơi. Cần nghiên cứu và sử dụng tài nguyên thiên nhiên này.
Biệt dược (phối hợp): Hương sa dưỡng vị hoàn - Sa nhân chỉ trần Thang - Sa nhân bạch hổ thang.
Bài thuốc Hương Sa Dưỡng Vị Hoàn
Nguyên bản bài thuốc:
Trung Dược Chế Tế Thủ Sách.
Chủ trị: Hòa vị, chỉ ẩu. Trị do vị bị hàn, khí trệ làm cho không muốn ăn uống, nôn ra nước chua, bụng đầy, tay chân mỏi mệt.
Thành phần bài thuốc:
Bạch truật (sao lúa) 40g
Trần bì 40g
Phục linh 40g
Bán hạ (chế) 40g
Sa nhân 28g
Hương phụ (nướng giấm) 28g
Mộc hương 28g
Chỉ thực 28g
Đậu khấu nhân 28g
Hoắc hương 28g
Hậu phác (nướng Gừng) 28g
Cam thảo 12g
Tán bột. Trộn mật làm hoàn.
Mỗi lần uống 12g với nước ấm, ngày 2 lần.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Bài thuốc Sa Nhân Chỉ Trần Thang
Nguyên bản bài thuốc:
Nghiệm Phương.
Sa Đồ Mục Tô
Chủ trị: Hành đờm, lợi khí. Trị đờm, ho.
Thành phần bài thuốc:
Bán hạ 8g
Cam thảo 2g
Chỉ xác 6g
Phục linh 8g
Sa nhân 8g
Trần bì 6g
Thêm Gừng sắc uống.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Bài thuốc Sa Nhân Bạch Hổ Thang
Nguyên bản bài thuốc:
Nghiệm Phương.
Sa Đồ Mục Tô
Chủ trị: Trị sốt cao, các bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng ở giai đoạn đầu.
Thành phần bài thuốc:
Cam thảo 8g
Sa sâm 12g
Thạch cao 40g
Tri mẫu (sao) 12g
Dùng gạo nếp sao để làm thang. Sắc uống.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Sa sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

.jpg)












.jpg)
.jpg)





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét