MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - EUPETORIUM STAECHADOSMUM HANCE (MẦN TƯỚI)
MẦN TƯỚI 紫茎泽兰 Zǐ jīng zé lán
Tên khoa học: Eupatorium staechadosmum Hance (Eupatorium fortunei Turcz.) họ Cúc (Asteraceae).
Tên khác: Trạch lan - Mần tưới trắng - Đội lan (TQ) - Eupatorium herb (Anh) - Boneset (Mỹ).
Bộ phận dùng: Cả cây Mần tưới (Herba Eupatorii) bỏ rễ phơi khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) DĐTQ (1997).
Mô tả: Cây Mần tưới là một cây cỏ nhỏ, cao 1,50-1m, có nhiều cành nhẵn, màu tím, lá mọc đối, chia làm 3 phiến lá hẹp, đầu nhọn, mép có răng cưa thưa, lá màu xanh lục. Hoa tự hình đầu, mọc ở đầu cành hay kẽ lá, hình xim hai ngả, mùa hoa tháng 11-12, nụ màu tím hồng, hoa màu tím nhạt.
Cây mần tưới được trồng ở khắp nơi và là một trong số 16 cây vận động trồng ở xã.
Cách trồng mần tưới rất đơn giản: trồng bằng những đoạn cành già hay những nhánh cây non ở những khóm mọc tốt. Cây ưa ẩm và ánh sáng.
Chú ý: Còn một loài mần tưới (Eupatorium sp.) phiến lá nhỏ, mép không chia răng cưa, cây mọc không mạnh như loại trên.
Cần phân biệt 2 thứ mần tưới (chưa xác định rõ tên khoa học).
Mần tưới đực: lá hơi tròn, góc vừa xanh vừa vàng, có tác dụng sinh huyết, điều huyết.
Mần tưới cái: trên mặt lá có nét vẽ, góc nhọn, có tác dụng phá huyết, thông tích.
Thu hái chế biến: Thu hái tốt nhất vào mùa hè, trước khi cây ra hoa. Khi cây mần tưới xanh tốt, cắt lấy phần trên mặt đất, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Hiện nay, ta chưa thu mua mần tưới.
Thủy phần dưới 14p100.
Đoạn ngọn cành dài quá 30cm dưới 5p100.
Thành phần hóa học: Hiện nay chưa rõ hoạt chất của mần tưới, chỉ mới biết trong cây mần tưới có tinh dầu thơm (trong đó có p. cymen, methyl thymol ether).
Công dụng: Theo Đông y, mần tưới vị đắng, tính hơi ấm, vào 2 kinh Tỳ và Can.
Có tác dụng hành huyết, tiêu thủy, tiêu thũng, trừ thấp, kiện tỳ, điều kinh, làm mát gan, làm tan uất kết.
Dùng chữa các chứng bệnh kinh nguyệt bế, đẻ xong hay đau bụng, người mặt phù thũng, ung thũng, đẻ xong lưng đau, chân tay co quắp.
Liều dùng: 3-6g. Sắc uống.
Lưu ý: Không có ứ huyết, phụ nữ có thai không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Đẻ xong, thủy thũng hoặc huyết hư phù thũng:
Mần tưới, Phòng kỷ, 2 vị bằng nhau tán nhỏ, mỗi lần uống 6g với rượu.
Bài số 2: Chữa thấy kinh đau, tắc kinh do ứ máu:
Mần tưới 9g
Hương phụ chế 9g
Đan sâm 12g
Sắc uống.
Bài số 3: Chữa sau khi đẻ huyết hôi ra không hết, ngực bụng đau trướng:
Mần tưới 9g
Xích thược 9g
Đương quy 9g
Gừng sống 9g
Đại táo 9g
Sinh địa 15g
Cam thảo 3g
Quế tâm 4g
Sắc uống.
Ngoài ra mần tưới còn dùng chống mạt gà, bọ chó, bọ chét, dĩn (còn gọi là dãn, bọ mát) là những côn trùng nhỏ li ti, có cánh, thường sống ở những vùng cây cối râm rạp, ẩm thấp. Dĩn có nhiều loài, trong đó có một loài hút máu người và súc vật (chỉ dĩn cái mới hút máu). Do dĩn nhỏ nên thường chỉ nhìn thấy chúng sau khi chúng đã hút no máu.), rệp v.v... Lấy các cành mần tưới trải xuống dưới chiếu hay dưới gầm giường. Cách 3-4 ngày lại thay một lần.
Còn dùng để bảo quản cau khô khỏi mốc, đậu xanh khỏi mọt.
Ngọn mần tưới dùng làm rau ăn.
Lá mần tưới cài đầu cho sạch gàu nên gọi là Hương lan.
Trung Quốc dùng cây Trạch lan Trung Quốc, còn gọi Thổ Ngưu đằng (Eupatorium chinense L.) gần giống cây Mần tưới lá răng cưa của ta nhưng lá không chia làm 3 phiến: rễ có ác dụng trừ nóng, giải độc, dùng chữa các bệnh bạch cầu, viêm họng, sưng amydal, cảm mạo, sốt (1-10g sắc uống). Ta cũng có cây này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét