MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - LACTUCA INDICA L. (MŨI MÁC)
MŨI MÁC/ BỒ CÔNG ANH 蒲公英 Púgōngyīng
Tên khoa học: Lactuca indica L., họ Cúc (Asteraceae).
Tên khác: Bồ công anh - Diếp dại - Diếp trời - Rau bao - Rau bồ cóc - Mót mét.
Bộ phận dùng: Lá của cây Mũi mác (Folium Lactucae indicae) phơi khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) với tên Bồ công anh.
Mô tả: Cây Mũi mác là một cây cỏ cao 0,60-1m, có thể tới 3m thân thẳng, không cành hoặc rất ít cành. Lá có nhiều hình dạng khác nhau: lá phía dưới thuôn, rất nhọn đầu, như mũi mác, dài 30cm, rộng 5-6cm, gần như không có cuống, chia thành nhiều thùy hay răng cưa to thô: lá phía trên ngắn và hẹp hơn, nguyên chứ không chia thùy, méo có răng cưa thưa. Bấm lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa, vị hơi đắng. Hoa tự là một chùm dài, phân nhánh nhiều, các đầu nhóm họp từ 2-5 cái, tổng bao hình trụ, mỗi đầu có 8-10 hoa vàng hay vàng nhạt. Mùa hoa tháng 10-12. Trái bế đen, có mào lông trắng khi già bay theo chiều gió, lan rộng và mọc hoang ở nhiều nơi khắp nước ta.
Thu hái chế biến: Mùa thu hái tháng 5-7. Khi trời khô ráo, hái ngọn cây, ngọn cành theo đúng quy cách, có nhiều lá bánh tẻ. Loại bỏ lá xấu, lá già vàng úa, không lấy các ngọn có hoa, đem phơi nắng hoặc sấy nhẹ cho thật khô.
Cây mũi mác vị hơi đắng.
Loại mũi mác khô, lá màu lục xám, không mốc, không vụn nát là tốt. Có hai loại:
1. Toàn lá bánh tẻ và đoạn ngọn cây, ngọn cành dài dưới 20cm, có nhiều lá.
2. Các đoạn ngọn cây, ngọn cành dưới 50cm, có nhiều lá bánh tẻ.
Thủy phần an toàn dưới 12p100.
Hiện nay dùng cả dây Diếp dại (Lactuca sp.) còn gọi là Bồ công anh Thanh Hóa. Dùng lá và ngọn như cây mũi mác.
Cây cao 0,5-2m. Lá không có răng cưa mà mép nhẵn như rau diếp. Hoa tự hình ngù, màu vàng nhạt, khi già cũng thành bông bay xa.
Có nơi dùng cả cây Lưỡi mèo (Sonchus arvensis Linn. cùng họ) cũng còn gọi là rau diếp dại, là một cây cỏ sống 2 năm. Thân đứng, cao 1m. Lá thuôn nhọn mũi, có răng, có tai, phần gốc ôm rất thân, bấm có nhựa trắng như sưa. Đầu mọc thành ngù hình tán. Đầu hình chuông. Các lá bắc hình dải nhọn, có lông rắn. Hoa nhiều. Mào lông rất mềm và trắng. Trái bế dẹp, thuôn hai đầu, có 5 cạnh. Có hoa trái vào mùa đông, xuân.
Cần phân biệt tránh nhầm lẫn cây Mũi mác với:
1. Cây Bồ công anh: (Taraxacum sp). Cây thấp 0,20-0,40m lá mọc sát đất thành hình hoa thị ở gốc.
Cây Bồ công anh: (Taraxacum sp).
2. Cây Chỉ thiên: (Elephantopus scaber Linn. cùng họ) cây thấp 0,20-0,40m, lá mọc sát đất thành hình hoa thị ở gốc, giống như cây Bồ công anh, nhưng cụm hoa gồm nhiều đầu, họp thành dạng ngù như một đầu kép. Trong mỗi đầu có 4 hoa màu tím nhạt. Ở miền nam nước ta, cây Chỉ thiên được dùng với tên Bồ công anh, ở miền Nam Trung Quốc (Quảng Tây) cũng vậy.

Dịch của lá cây Sơn oa cự (Lactuca laciniata Makino) gọi là Lactucarium trong đó lactucin, lactucopicrin, lactucon và acid lactucic.
Công dụng: Hiện nay dùng cây Mũi mác chủ yếu làm thuốc tiêu độc, chữa mụn nhọt.
Liều dùng: 6-12g. Sắc uống.
Bài thuốc: Cao KBĐ (Viện Mắt Hà Nội) chữa loét giác mạc đơn thuần:
Kim ngân hoa 70g
Bồ công anh (Lactuca sp hay Sonchus arvensis) 65g
Đơn tướng quân 65g
Nấu thành dạng cao đặc (1g dược liệu 1g cao).
Uống ngày 50ml cho trẻ em hay bệnh nhẹ, 75-100ml cho người lớn hay bệnh nặng.
Chia làm hai lần uống sau bữa ăn khoảng 30 phút hay 1 giờ.
Không dùng khi trời lạnh, đối với người có bệnh đường ruột mạn tính hay người bị ỉa chảy, thể trạng hàn.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, thoáng gió, tránh ẩm ướt, tránh làm nát vụn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét