Bộ phận dùng: Rễ cây Mạch môn đông (Radix Ophiopogonis) phơi khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1977), (1983) và DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cây Mạch môn là một cây cỏ sống lâu năm, cao từ 20-40cm, rễ chùm, trên rễ có những quãng phát triển thành củ mầm. Lá mọc từ gốc, hẹp dài tựa lá lúa mạch, dài 15-40cm, rộng 2-4mm, cuống hơi có bẹ trắng, phần trên lá màu xanh, lục sẫm. Hoa màu trắng nhỏ. Trái mọng màu tím nhạt, nhỏ.
Cây Mạch môn đông mọc hoang và được trồng ở khắp nơi trong nước ta: Hưng Yên, Bắc Giang, Hà Tây, Nam Hà, Nghệ An v.v...
Thu hái chế biến: Khoảng tháng 9-12, đào lấy những rễ củ già ở cây đã trồng 2 năm, rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ nhỏ ở hai đầu. Củ nhỏ để nguyên, củ to bổ dọc đôi rồi phơi khô hoặc sấy nhẹ lửa.
Cũng có thể rửa sạch rồi phơi nắng to, xong vun đống cho thoát hơi nước, sau lại tãi ra phơi khô.
Mạch môn đông mùi hơi thơm, vị ngọt, nhai có chất dính. Loại mạch môn củ to mập, khô, màu trắng ngà, mềm nhuận, nhai có chất dính, không mốc là tốt.
Thủy phần an toàn dưới 13p100.
Loại mạch môn nhỏ, gầy, màu vàng xám, nhai không có chất dính là kém (Rễ con không dùng làm thuốc) rễ non teo: dưới 2p100.
Cần phân biệt với cây Tóc tiên (Ophiopogon spicatus Hook. cùng họ) lá nhỏ.
Một số tài liệu gọi Mạch môn đông là cây Liriope graminifolia (L.) Baker cùng họ. Còn cây Ophiopogon japonicus gọi là Duyên giới thảo.
Thành phần hóa học: Hiện nay chưa rõ hoạt chất của mạch môn, mới thấy có chất nhầy, dính, saponin, chất đường, glucose và β-sitosterol, stigmasterol, ophiopogonin, ophiosid...
Công dụng: Theo Đông y, mạch môn đông vị ngọt, hơi đắng, tính hơi lạnh, vào 3 kinh: Tâm, Phế, Vị.
Có tác dụng nhuận mát phổi, thanh tâm, tả nhiệt (trừ nóng), nuôi dạ dày, sinh tân dịch, lợi sữa, nhuận tràng, tiêu đờm, chữa ho.
Dùng chữa các chứng bệnh: người suy yếu mệt nhọc mà ho, ho khan, ho ra máu, viêm cuống phổi, lao, miệng khô đắng, có đờm đặc, khát, sốt nóng, tân dịch khô ráo, đại tiện táo bón, phụ nữ kinh nguyệt ít, sữa không xuống.
Theo Tây y, mạch môn có tác dụng hạ sốt, chữa ho, thông đờm, bổ tim, giảm đường huyết, chống viêm.
Liều dùng: 5-10g sắc uống. Khi dùng thì bỏ lõi.
Lưu ý: Người bị ho do ngoại cảm lạnh, hoặc tỳ vị hư hàn, ỉa chảy không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa ho, đau cuống họng:
Thiên môn đông 50g
Mạch môn đông 50g
Nấu với nước, lọc bỏ bã, cô lại, thêm mật ong, uống chia làm 10 ngày.
Bài số 2: Chảy máu chân răng:
Nước sắc mạch môn đông dùng súc miệng vài lần là khỏi.
Bài số 3: Chữa họng khô, khát, lưỡi đỏ, yếu phổi, ho, nôn ra dãi:
Mạch môn 15g
Đảng sâm 9g
Gạo tẻ 15g
Cam thảo 3g
Bán hạ chế 5g
Đại táo 4 trái
Sắc uống.
Bài số 4: Chữa tân dịch ít, táo bón:
Mạch môn 15g
Sinh địa 15g
Huyền sâm 9g
Sắc uống.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, râm mát, tránh ẩm ướt.
Biệt dược (phối hợp): Hà xa đại tạo hoàn.
Hà xa đại tạo hoàn bồi bổ khí âm trong cơ thể, tăng sinh tinh huyết. Mạnh lưng gối, thích hợp cho người đau lưng mỏi gối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét