MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - VITEX TRIFOLIA L. (MẠN KINH)
MẠN KINH
Tên khoa học: Vitex trifolia L. họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Tên khác: Cây Quan Âm - Cây thuốc ôn - Poivre sauvage (Pháp) - Chaste tree (Anh) - Shrub chaste me (Anh).

Bộ phận dùng: Trái già (thường gọi nhầm là hạt) của cây Mạn kinh (Fructus Viticis) phơi sấy khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cây Mạn kinh ba lá còn gọi là Quan âm núi (Vitex trifolia L.) cao tới 2-3m, mọc ở vùng núi, lá mọc đối gồm 3 lá chét, phiến lá chét hình bầu dục, đầu hơi tròn.
Hoa nhỏ, mọc thành chùm ở đầu cành. Mùa hoa tháng 5-6. Trái hình cầu, lúc non thì xanh, khi già thì đen, có tai bao bọc màu xám tro.
Cây Mạn kinh mọc hoang nhiều ở nước ta (Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Hà Dương, Hưng Yên...).
Thu hái chế biến: Mùa thu hái tháng 9-11 hái các chùm trái già, bứt lấy trái, chú ý giữ các tai bao gần nửa trái, đem phơi hay sấy nhẹ ở 40-50°C, đến thật khô, rồi loại bỏ tạp chất.
Mạn kinh tử mùi thơm tinh dầu đặc biệt, vị đắng. Loại Mạn kinh tử trái to, đường kính trên 4mm, khô, già, chắc, mập, thơm, vỏ màu đen tro, còn cả đài (tai) bao bọc, không lẫn tạp chất là tốt.
Thủy phần an toàn dưới 11p.100.
Tỷ lệ trái non teo dưới 5p.100.
Một số nơi dùng trái cây Mục kinh hay Mẫu kinh (Vitex cannabifolia S. et Z., cùng họ, trái cây Mạn kinh lá tròn, còn gọi là Quan âm biển (Vitex rotundifolia L.f.), hay trái cây Hoàng kinh (Vitex rotundifolia L.f.), hay trái cây Hoàng kinh (Vitex negundo L., cùng họ) để thay thế mạn kinh tử.
Thành phần hóa học: Mạn kinh tử chứa tinh dầu trong đó có camphen, pinen (55p100) diterpen alcol C20H22O (2p100) và terpenylacetat (10p100).
Theo tài liệu của Trung Quốc, thì trong Mạn kinh tử Vitex rotundifolia có chứa flavonoid, gọi là Vitexicarpin.
Công dụng: Theo Đông y, mạn kinh tử vị đắng, cay, tính hơi lạnh, vào 3 kinh Can, Phế, Bàng quang.
Có tác dụng: trừ cảm sốt nóng (phong nhiệt).
Dùng chữa các chứng bệnh cảm cúm, sốt nóng nhức đầu, tối tăm mặt mũi, tê thấp, co quắp, đau nhức trong mắt, nước mắt chảy nhiều.
Liều dùng: 5-10g, sắc uống hay tán bột uống (có thể sao tới màu hơi vàng xém).
Lưu ý: Người bị chứng nhức đầu nhức mắt do thiếu máu (huyết hư) và vị hư không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa tiểu tiện không lợi, phổi bí khó thở:
Mạn kinh tử 10g
Nghiền nhỏ, uống với nước sôi (chia làm 3 lần).
Bài số 2: Chữa đau mắt đỏ, sưng mờ:
Thảo quyết minh 10g
Cam cúc hoa 10g
Sơn chi tử 10g
Cốc tinh thảo 10g
Mạn kinh tử 10g
Xuyên khung 5g
Thuyền thoái 5g
Phòng phong 5g
Khương hoạt 5g
Cam thảo 5g
Hoàng cầm 5g
Mộc tặc thảo 5g
Kinh giới 5g
Bạch tật lê 5g
Mật mông hoa
(Buddleia officinalis Maxim) 5g
Tán thành bột cho uống, mỗi lần 3-6g, mỗi ngày 2-3 lần.
Bài số 3: Thuốc làm đen tóc:
Mạn kinh tử và Hùng chi (Mỡ gấu), hai vị bằng nhau, chế thuốc mỡ bôi vào đầu, làm đen tóc.
Bài số 4: Chữa nhức đầu do phong nhiệt, váng đầu, mờ mắt:
Mạn kinh tử 9g
Cúc hoa 9g
Xuyên khung 5g
Cam thảo 3g
Phòng phong 9g
Khương hoạt 5g
Thạch cao sống 1,5g
Chỉ xác 6g
Sắc uống.
Biệt dược (phối hợp): Rumafar.
Viên nén bao đường Rumafar (Cao đặc hải sài, Cao lỏng Xuyên khung, Bột Mạn kinh tử, Bột Bạch chỉ, Bột địa liền, Bột phèn phi) được dùng điều trị các trường hợp cảm cúm, nóng lạnh, sổ mũi và nhức đầu...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét