MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - CUCUMIS MELO L. (DƯA BỞ)
DƯA BỞ
Tên khoa học: Cucumis melo L. họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Tên khác: Điềm qua (TQ) - Dưa ếch.
Bộ phận dùng: Cuống trái dưa bở đã chế biến khô, gọi là Điềm qua đế. (Pedicelus Melo).
Mô tả: Cây thảo sống hằng năm, thân dây mọc bò lan, thân phủ lông ngắn, có tua cuốn đơn. Lá khá rộng, hình tim ở gốc, hơi tròn, mép có răng, cả 2 mặt lá có lông mềm. Hoa màu vàng, hoa đực, hoa cái mọc riêng lẻ. Trái nhiều hình thù khác nhau tùy từng loại, thường vỏ có màu vàng sọc xanh. Thịt màu vàng ngà, có chất bột mịn, mềm, bở mùi thơm đặc biệt. Ruột có nước sánh màu vàng vị ngọt, mát, hạt nhỏ màu trắng, có vỏ dai.
Dưa bở được trồng ở khắp nơi để ăn.
Thu hái chế biến: Khi ăn trái, thu gom lấy cuống trái, đem phơi sấy khô là được.
Thành phần hóa học: Sơ bộ thấy có chất elaterin C20H28O5.
Công dụng: Theo Đông y, cuống trái dưa bở vị đắng, tính lạnh, vào kinh Vị.
Có tác dụng làm nôn ra các chất đờm dãi, thức ăn bị ứ đọng, ngoài ra còn trừ thấp, nhuận tràng, chữa hoàng đản, viêm ruột thừa.
Liều dùng: 3-6g (sắc uống). Tán bột: 0,50-1,50g.
Lưu ý: Người ho, khạc ra máu, không có thực tà ở phần trên của cơ thể không được uống.
Bài thuốc:
Bài số 1: Làm nôn ra thức ăn bị ứ đọng ở dạ dày, để tống độc ra khi bị ngộ độc thức ăn.
Điềm qua đế, Xích tiểu đậu, lượng bằng nhau.
Tán bột, mỗi lần uống 3g, lấy đậu sị nấu nhừ, bỏ bã, lấy nước, chiêu uống với bột thuốc cho đến khi nôn ra.
Bài số 2: Chữa động kinh kéo đờm dãi tắc họng, trở ngại hô hấp, làm khạc ra đờm:
Điềm qua đế, Uất kim, lượng như nhau, tán thành bột. Mỗi lần uống 3g với nước.
Bảo quản: Để nơi khô, ráo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét