MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - MOMORDICA COCHINCHINENSIS (LOUR.) SPRENG. (GẤC)
GẤC
Tên khoa học: Momordica cochinchinensis (Lour.) Spreng. họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Tên khác: Mộc miết (TQ) - Murinic (Pháp) - Cochinchina Momordica (Anh).
Bộ phận dùng:
1. Hạt gấc: Còn gọi là Mộc miết tử (TQ) là hạt lấy ở trái gấc chín (Semen Momordicae) đã bóc vỏ màng và chế tiết khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963), (1997).
2. Dầu gấc: (Oleum Momordicae) là dầu ép từ màng đỏ bọc hạt gấc. Đã được ghi vào DĐVN (1997).
3. Rễ gấc: Còn gọi là Phòng kỷ nam là rễ cây gấc (Radix Momordicae) phơi khô.
Mô tả: Cây gấc là một loài dây leo, mỗi năm lụi một lần, nhưng lại đâm chồi từ gốc cũ lên vào mùa xuân năm sau. Lá mọc so le, chia thùy khía sâu tới 1/2 phiến lá. Hoa đực, cái riêng bệt, cánh hoa màu vàng nhạt. Mùa hoa tháng 4-5. Trái hình bầu dục dài độ 15-20cm, đáy nhọn, ngoài có nhiều gai, khi chín màu vàng đỏ đẹp tươi. Mùa trái tháng 6-2 năm sau. Gấc nếp thì thưa gai hơn gấc tẻ.
Trong trái có nhiều hạt xếp thành hàng dọc, quanh hạt có màng màu đỏ máu, tươi. Bóc lớp màng đỏ sẽ thấy hạt hình gần giống con ba ba, nhỏ, ngoài có lớp vỏ cứng, mép có răng cưa. Trong hạt có nhân trắng chứa nhiều dầu.
Gấc mọc hoang và được trồng khắp nơi ở nước ta... Trồng bằng hạt hay giâm cành vào các tháng 2-3, trồng một năm có thể thu hoạch hàng chục năm. Ngay năm đầu đã có trái nhưng ít, càng về sau càng nhiều trái.
Thu hái chế biến: Mùa thu hái từ tháng 8 đến tháng 1-2 năm sau. Trái chín hái về đem chẻ ra, vét hạt với cả màng đỏ. Nếu để nấu xôi thì dùng tươi trộn với gạo (có thể thêm ít rượu). Nếu để chế dầu thì phải sấy hay phơi khô tới khi không còn dính tay, bóc lấy màng đỏ tươi rồi lại hay phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp (60-70°C). Tán nhỏ màng rồi áp dụng một trong 2 phương pháp sau:
1. Chiết bằng dung môi: Lấy kiệt bằng ête dầu hỏa. Sau đó thu hồi ête bằng đun cách thủy trong khí Nitơ hay khí carbonic. Cặn còn lại là dầu gấc. Để lâu dầu này sẽ để lắng một lớp dầu gấc. Để lâu dầu này sẽ để lắng một lớp tinh thể caroten thô ở dưới, bên trên là lớp dầu no caroten. Tỷ lệ dầu trong màng đỏ là 8p100. Trung bình 100 kilogram trái gấc cho độ 1,9 lít dầu gấc.
2. Ép như dầu lạc: Màng đỏ đã sấy khô, tán nhỏ, đem đồ lên rồi ép lấy dầu. Để lâu cũng sẽ phân làm 2 lớp như trên.
Dùng cồn 95°C, loại acid tự do trong dầu chế theo 2 phương pháp trên thì được dầu gấc trung bình.
Dầu gấc: Dầu sánh, trong, màu đỏ tím đậm, mùi thơm ngọt, vị béo, không khé cổ. Tỷ lệ caroten trên 0,15p100. Nếu có cặn phải là cặn caroten tinh thể. DĐVN (1997) quy định dầu phải chứa ít nhất 0,1p.100 β-caroten.
Hạt gấc: Khô, già, vỏ ngoài cứng đen, chắc, nặng, mép có răng cưa tù và rộng, trong có nhân trắng ngà, có dầu, không bị thối đẹp.
Nguyên hạt, không vỡ nát, không thối nhân, không lẫn tạp chất là tốt.
Hiện nay ta chưa có tiêu chuẩn chất lượng về rễ gấc.
Thành phần hóa học: Dầu gấc: 1ml dầu gấc có 30mg caroten tương ứng với 50.000 đơn vị quốc tế vitamin A.
Hạt gấc: Trong nhân hạt gấc có chất momordin (là 1 loại saponin), 6p100 nước, 2,9p100 chất vô vơ, 55,3p100 chất béo, 16,6p100 chất protid, 2,9p100 đường toàn bộ, 1,8p100 tanin, 2,8p100 cellulose và 11,7p100 chất không xác định được.
Ngoài ra còn có các men phosphatase, invectase và peroxydase.
Công dụng:
1. Màng gấc: Nhân dân ta dùng đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.
2. Dầu gấc: Dầu gấc có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dùng bôi lên các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho chóng lành, lên da. Uống dầu gấc, người bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể, do chất caroten dưới tác dụng của men carotenase có nhiều trong gan sẽ tách β-caroten thành 2 phân tử vitamin A. Dùng cho trẻ em chậm lớn, trong bệnh khô mắt, quáng gà.
Liều dùng: Dầu gấc: Mỗi ngày 2 lần, uống trước 2 bữa ăn chính mỗi lần 5 giọt, có thể tăng lên tới 15 giọt. Trẻ em 5-10 giọt, 1 ngày. Dùng ngoài dưới dạng thuốc mỡ 5-10p100 dầu gấc hay bôi bằng dầu nguyên chất (chữa bỏng).
3. Hạt gấc: Theo Đông y, hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc.
Dùng chữa các chứng bệnh ung thũng, mụn nhọt độc, tràng nhạc, eczema, viêm da thần kinh, trĩ, phụ nữ sưng vú. Có thể chế thuốc viên hay tán bột uống. Liều uống 0,8-1,2g. Nhưng thường dùng đắp ngoài da, đồ mụn nhọt. Nhân dân còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.
4. Rễ gấc: Sao vàng, tán nhỏ, dùng thuốc chữa tê thấp, sưng chân gọi là Phòng kỷ nam.
5. Lá gấc: Viện Đông y dùng lá gấc với Tầm gửi đắp ngoài da làm thuốc tiêu sưng tấy.
Bài thuốc: Chữa sưng vú: giã nhân hạt gấc với ít rượu đắp chỗ sưng đau.
Lưu ý: Nhân hạt gấc còn gọi là Phiên mộc miết, theo Đông y, có tính rất lạnh, ăn phải thì cấm khẩu nguy hiểm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét