MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - ILLICIUM VERUM HOOK.F. (ĐẠI HỒI 八角)
ĐẠI HỒI 八角 (Trái)
Tên khoa học: Illicium verum Hook.f. họ Hồi (Illiciaceae).
Tên khác: Trong tiếng Trung, 八角, pinyin: bājiǎo, có nghĩa là "tám cánh", cho nên Đại hồi có tên là Bát giác hồi hương - Đại hồi hương - Anis étoilé - Badiane (Pháp) - Anise (Anh) - Chinese star anise (Anh).
Bộ phận dùng: Trái chín đã chế biến khô của cây hồi (Fructus Anisi Stellati).
Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1063), (1997).
Mô tả: Cây nhỡ, cao 5-12m, thân thẳng. Lá mọc so le, phiến lá hình mác, nguyên, dày, nhẵn bóng, dài 8-12cm, rộng 2-4cm, đầu nhọn. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá, cuống to, ngắn, 5 lá đài, 5 cánh hoa màu hồng đỏ; trái kép thường gồm 8 đại (có khi hơn) xếp hình ngôi sao, đường kính 2-4cm, lúc non màu xanh ve, khi già màu nâu, mỗi đại dài 1,0-2,0cm, đầu nhọn, trong có 1 hạt nhẵn bóng, hình trứng. Trái tháng 6-9. Cây hồi được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc nước ta, nhất là Lạng Sơn, có cả ở 2 tỉnh Trung Quốc, giáp giới: Quảng Đông, Quảng Tây.
Tránh lẫn 2 cây hồi khác: Illicium religiosum Sieb.et.Zucc. có các đại (cánh) nhỏ hơn, số lượng đại ít hơn 8, đầu nhọn hình mũi cong, không thơm và có độc, chứa acid sikimic, không có anethol. Illicium griffithii (còn gọi Hồi núi, Dã hồi hương) (TQ) Faux badianier (Pháp) - Mu ba (HMông) các đại có đầu cong như móng vuốt gấu, hổ, có độc. Cây này mọc hoang ở miền núi Lạng Sơn, Lào Cai, Tây Bắc.
Illicium religiosum.
Illicium griffithii.
Thu hái chế biến: Ở nước ta có 2 vụ hồi: Vụ mùa (tháng 7-8) và vụ chiêm (tháng 11-12) phơi trong râm cho khô.
Thủy phần dưới 13p100.
Thường phân 3 loại:
Loại 1: có 8 đại to đều nhau, màu nâu đỏ.
Loại 2: có 3 loại bị lép, màu nâu đen.
Một cây trưởng thành (trên 8 năm) có thể cho 80-120kg trái hồi tươi mỗi năm. Người Pháp rất chuộng rượu Anis (Pernod).
Thành phần hóa học: Trái hồi chủ yếu chứa 3,0-3,5p100 tinh dầu (trái tươi) hoặc 9-10p100 (khô). Dược điển Việt Nam quy định: Dược liệu phải chứa ít nhất 4p100 tinh dầu. Trong tinh dầu hồi có 80-90p100 athenol, còn lại là terpen, pinen, limonen, dipenten, estragol, safrol, terpineol...
Trans -anethol có nhiều nhất trong tinh dầu Hồi, Cis - athenol chỉ chiếm 3-4p100 tổng số anethol. Nhưng cis-anethol lại độc gấp 10-20 lần trans-anethol. Hồi của ta tỉ lệ cis anethol thường dưới 0,04p100. Trong tinh dầu hồi tổng hợp tỉ lệ này càng cao.
Công dụng: Theo Đông y, đại hồi vị cay, tính ấm, vào 4 kinh Can, Thận, Tỳ, Vị.
Có tác dụng giúp tiêu hóa, trừ lạnh, khai vị.
Dùng chữa các chứng bụng, trướng đầy, nôn mửa, đau bụng do lạnh.
Ngoài ra trong thực phẩm, đại hồi còn được dùng để chế bột "húng lìu" (hương liệu).
Công thức bột húng lìu tẩm ướp khi nấu ăn:
Quế đơn
Đại hồi
Thảo quả
Đinh hương
Hạt húng quế
Tiểu hồi hương
Ngọc khấu (Nhục đậu khấu) Myristica Fragrans
Tiêu đen
Trần bì (vỏ quýt khô) Citrus reticulata
Hạt mùi gai
Phơi khô, sao vàng, hạ thổ, tán bột.
Liều dùng: 4-8g (dạng sắc, bột, ngâm rượu).
Lưu ý: Ngoài ra còn có cây Tiểu hồi hương (Foeiculum vulgare Miller, họ Hoa tán) (xem Tiểu hồi).
Foeiculum vulgare Miller.
Các nước châu Âu lại dùng trái của cây Dương hồi hương (Pimpinella anisum L. họ Hoa tán) còn gọi Anis cultivé, cây nhỏ cao độ 0,60cm cũng chứa tinh dầu, trong đó 90p100 là anethol, có tác dụng chống tiêu hóa, kích thích tất cả các tuyến, đặc biệt tuyến sữa.
Người thuộc chứng âm hư, hỏa vượng không nên dùng uống.
Pimpinella anisum L.
Bảo quản: Để nơi khô mát.
Biệt dược (phối hợp): Tisane Clairo - Wededa - Mucinum - Rượu rắn.
Biệt dược (tinh dầu): Lépénéphryl Neopeptine - Opizoic - Pharmasan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét