MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - ACANTHOPANAX GRACILISTYLUS W. W.SM (NGŨ GIA BÌ)
NGŨ GIA BÌ 五加皮 Wǔ Jiā Pí
Tên khoa học: Acanthopanax gracilistylus W.W.Sm. họ Ngũ gia (Araliaceae).
Tên khác: Thích gia bì (Thích = gai) - Slenderstyle Acanthopanax Bark (Anh).
Bộ phận dùng: Ngũ gia bì là vỏ rễ của cây Ngũ gia gai phơi khô (Cortex Acanthopanacis). Đã được ghi vào DĐTQ (1963) (1997).
Mô tả: Cây Ngũ gia gai là một cây nhỏ, cao độ 3m, cành có rất nhiều gai. Lá mọc so le, có 5 lá chét, chụm vào nhau (vì vậy gọi là ngũ gia), cuống lá dài 4-7cm, phiến lá chét mỏng hình trứng ngược, đầu hơi thuôn nhọn, phía dưới gần cuống thót lại, mép có răng cưa. Hoa tự hình tán ở đầu cành, khác gốc, cuống hoa ngắn hơn cuống lá, hoa có 5 cánh màu trắng lục, 5 nhị đực, vòi nhụy chẻ làm 2, bầu 2 ngăn. Mùa bông: đầu mùa hè. Trái mọng hình cầu, khi chín màu đen, đường kính độ 2,5mm Hạt nhỏ, dẹt phẳng. Theo Võ Văn Chi ở Vietnam ta có các cây:
- Ngũ gia gai (Acanthopanax senticosus (Rupr. et Maxim.) Harms (eleutherococus senticosus Rupret Maxim.) Maxim. ở dãy Hoàng Liên Sơn.
- Ngũ gia hương Acanthopanax trifoliatus (L.) Merr.
- Ngũ gia nhỏ - Acanthopanax gracilistylus W.W Sm, mọc vùng núi cao Lào Cai, Hà Giang v.v...
Riêng cây Ngũ gia hương có cả vùng núi Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình v.v...
Cần nghiên cứu và điều tra thêm, nếu đúng là cây Acanthopanax senticosus thì rất quý.
Thu hái chế biến: Thường thì thu hái vào mùa hè hay mùa thu tốt hơn. Đào lấy rễ, bỏ lõi, lấy vỏ, phơi khô. Ngũ gia bì hình ống dài, có khi cuộn 2 mép dài 6,5-0,35cm. Mặt ngoài màu nâu tro, có những đường rãnh dọc và những bì khổng hình tròn dài theo chiều ngang. Mặt trong màu vàng có những vân dọc. Chất nhẹ, giòn, để bẻ gãy, mặt cắt ngang không nhọn đều, màu vàng tro. Hơi có mùi thơm, vị hơi đắng, chát. Loại Ngũ gia bì vỏ to, dài, dày thơm, không có lõi gỗ là tốt.
Thành phần hóa học: Trong vỏ rễ cây Ngũ gia nhỏ A. Gracilistylus W.W Smith có chứa tinh dầu thơm (chủ yếu có 4 chất - methoxy - salicylaldehyde) vitamin A, vitamin B, chất tanin và dầu béo.
Công dụng: Theo Đông y, Ngũ gia bì vị cay, tính ấm vào 2 kinh Can và Thận.
Có tác dụng mạnh gân cốt, trừ phong, hóa thấp. Dùng chữa các chứng bệnh: đau bụng, yếu chân, trẻ chậm biết đi, đau lưng tê chân, liệt dương, lở ngứa âm hộ.
Liều dùng: 5-10g, sắc hay ngâm rượu uống.
Trữ lượng cây Ngũ gia gai ở Việt Nam không nhiều Trong các đợt điều tra dược liệu ở các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, chỉ mới thu hoạch được ít, chế một ít rượu Ngũ gia làm mẫu.
Lưu ý: Người không có chứng phong thấp, âm hư hỏa vượng không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Rượu Ngũ gia bì: chữa tiểu són, lưng gối đau nhức, các chứng tê bại co quắp.
Ngũ gia bì 10g
Thục địa hoàng 5g
Đan sâm 5g
Địa cốt bì 5g
Đỗ trọng 5g
Sà sàng tử 3g
Can khương 3g
Thiên môn đông 5g
Nghiền thành bột ngâm rượu, bỏ bã, uống với nước đun sôi còn ấm.
Bài số 2: Viên Ngũ gia bì
Chữa cước khí (chân phù) đau nhức xương khớp:
Ngũ gia bì 10g
Viễn chí (bỏ lõi) 10g
Tẩm rượu, phơi khô, nghiền bột, trộn với hồ làm thành viên.
Bài số 3: Chữa phụ nữ huyết lao (mỏi mệt, ngắn hơi, phát nhiệt, ra nhiều mồ hôi, miệng khô, lưỡi ráo, biếng ăn):
Ngũ gia bì 30g
Xích thược 30g
Đương quy 30g
Tán nhỏ, mỗi lần uống 3g chiêu với nước.
Ghi chú: Thích ngũ gia (Eleutherococcus (Acanthopanax) senticosus Rupr et Maxim. cùng họ) còn gọi là Ngũ gia gai.
Cây Thích ngũ gia mọc hoang ở Nga, Triều Tiên, miền bắc Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo viện sĩ I.I Breakman (Nga), cây Thích Ngũ gia đang được nghiên cứu dùng thay thế Nhân sâm (Panax ginseng Nees, cùng họ) vì có tác dụng tương tự làm thuốc bổ trường sinh lại có nhiều ưu điểm hơn Nhân sâm.
a) Nhân sâm dùng chỉ có hiệu lực tốt vào 2 mùa thu đông. Còn Thích Ngũ gia dùng có hiệu lực tốt quanh năm, cả 4 mùa.
b) Thích Ngũ gia chống ảnh hưởng phóng xạ.
c) Làm cho người mau chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, chống stress (du hành vũ trụ). Ngoài ra cây Thích Ngũ gia dễ phát triển trồng trọt hơn cây Nhân sâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét