Mô tả: Cây thảo, mọc hàng năm, cao 40100cm, thân phân thành nhánh, thân màu tím hồng Lá hình mác nhọn, nhẵn mép nguyên, cuống ngắn, có bẹ chìa mỏng, phiến lá dài 46cm, rộng 1,0-1,5cm. Hoa họp thành bông ở đầu cành hay nách lá, bông hoa thường uốn cong xuống. Hoa nhỏ cỡ 2-4mm, bao hoa 5 mảnh, nhị 6 màu hơi hồng. Cả lá và hoa có những điểm tuyến trong suốt.
Trái bế hình ba góc. Mùa hoa trái: tháng 7-9.
Cây Nghể răm mọc hoang tại nhiều địa phương ở nước ta, nơi ẩm thấp, theo kênh mương, bãi đọng lầy, ao hồ.
Các nước lân cận ta và các nước Châu Âu đều có.
Thu hái chế biến: Mùa hè, khi cây đang phát triển tốt, đang ra hoa, cắt lấy phần trên mặt đất, độ 15-20cm, rửa sạch, phơi sấy khô (cũng có khi dùng tươi).
Thủy phần: dưới 13p.100
Thành phần hóa học: Trong cây Nghể răm có các chất oxymethulanthraquinon, các dẫn chất flavon, rutin, rhamnazin, isorhamnetin, aid polygonic, hyperin C21H20O12, persicarin C16H17O11SO3K, tanin, tinh dầu.
Theo các tác giả Liên Xô cũ, trong cây Nghể răm mọc hoang ở Nga thấy có các chất Polyopiperin (có tác dụng giúp sự co bóp tử cung), vitamin K.
Công dụng: Theo Đông y, Nghể răm vị cay, tính hơi ấm.
Có tác dụng lợi thấp, tiêu trệ.
Dùng chữa viêm ruột, lỵ trực khuẩn. Dùng ngoài da: chữa rắn cắn (vừa uống, vừa đắp và chữa một số bệnh ngoài da, mụn nhọt, lở). Có thể vò nát, xoa vào chân tay đề phòng đỉa, vắt cắn.
Theo Tây y, Nghể răm có tác dụng cầm máu, dùng chữa các chứng bệnh băng huyết trong sản khoa (thường bào chế dưới dạng lỏng). Ngoài ra, có thể dùng nước ngâm Nghể răm đặc, diệt bọ gậy và dòi (diệt trừ muỗi, ruồi).
Liều dùng: 10-12g (sắc uống). Dùng ngoài lượng vừa đủ.
Bảo quản: Để nơi khô, mát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét