MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - MORINDA CITRIFOLIA L. (NHÀU)
NHÀU
Tên khoa học: Morinda citriflora L., họ Cà phê (Rubiceae).
Tên khác: Cây Ngao - Nhầu núi - Nhàu rừng - Giầu - Noni Fruit.
Bộ phận dùng: Lá, trái, vỏ, rễ - Hay dùng rễ phơi sấy khô Folium, Fructus, Cortex et Radix Morindae citrifoliae). Bộ phận khác dùng tươi.
Mô tả: Cây cao khoảng 6-8m, mọc hoang ở bờ sông, suối. Thân nhẵn, cành to. Lá mọc đối hình bầu dục, đầu nhọn, dài 12-15cm. Bông nở vào tháng 1-2. Trái hình trứng, xù xì, dài 5-6cm, màu xanh nhạt, chín vào tháng 7-8 có màu trắng hồng. Mùi nống, vị cay. Ruột trái có một lớp cơm ăn được, ở giữa có một nhân cứng 6-7mm, rộng 4-5mm, có 2 ngăn chứa hạt nhỏ mềm.
Cây có nhiều ở miền Nam nước ta, chưa thấy ở miền Bắc, có thấy ở Vĩnh Linh, Quảng Bình.
Thu hái chế biến: Thu hái lá, trái, vỏ, rễ để làm thuốc - thường hay dùng rễ khô. Đào lấy rễ rửa sạch đất cát, phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học: Vỏ rễ chứa morindin C28H30O15 (Glucosid anthraquinonic) chính là một hỗn hợp nhiều anthxyrubiazin, alizarin, morindon và 1-oxy-2-3 dimethoxy anthraquinon.
Công dụng: Qua thử nghiệm thấy rễ nhàu có tác dụng: nhuận tràng nhẹ và lâu, lợi tiểu nhẹ, êm dịu thần kinh giao cảm, hạ huyết áp. Độ độc không đáng kể, không gây nghiện. Thường được dùng chữa bệnh tăng huyết áp (BS. Đặng Văn Hồ). Có thể dùng rễ sắc uống hoặc chế thành cao rễ nhàu - Uống như nước chè - Sau 1 ngày sẽ có kết quả, sau đó giảm liều xuống. Có nơi thái nhỏ sao vàng, ngâm rượu để uống.
Trái nhàu dùng ăn với muối giúp tiêu hóa, nhuận tràng, điều kinh, băng huyết, bạch đới, ho, hen, cảm, phù thũng, đau gân, tiểu đường - nướng chín ăn chữa lỵ.
Liều dùng: Rễ nhàu 30-40g/ ngày.
Lá 8-10g. Sắc uống chữa nhức đầu, chóng mặt.
Bảo quản: Rễ nhàu đựng trong bao gói kín, khô ráo. Tránh ẩm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét