Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - CINNAMOMUM OBTUSIFOLIUM NEES (QUẾ )🌱🌱🌱

        MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - CINNAMOMUM OBTUSIFOLIUM NEES (QUẾ )

QUẾ 桂 Guì

Tên khoa học: Cinnamomum obtusifolium Nees, còn gọi là Quế thanh, Ngọc quế.

- Cinnamomum cassia Presl. Còn gọi Quế đơn, quế Trung Quốc.

- Cinnamomum zeylancicum Breyn. Còn gọi Quế Srilanka.

DĐVN (1983) ghi 3 loài trên đều thuộc họ Long não (Lauraceae).

DĐTQ (1963) (1997) chỉ ghi một cây Quế: Cinnamomum cassia.

Dược điển Pháp (1965) ghi dùng 1 cây: Cinnamomum zeylanicum.

Tên khác: Cannellier - Cannelle de Ceylan (Pháp) - Ceylon Cinnamon - Cinnamon bark - Cassia Bark (Anh).

 




















Bộ phận dùng: Vỏ thân cây quế 桂皮 Guìpí đã chế biến khô (Cortex Cinnamomi) còn gọi là Ngọc quế, Quế bì.

Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963), (1997).

- Cành quế non đã chế biến khô (Ramulus Cinamomi) còn gọi là Quế chi, Cassia Twig (Anh).

Đã được ghi vào DĐTQ (1963), (1997).

Mô tả: Cả ba loài quế kể trên đều có ở Việt Nam.

C. cassia có nhiều ở miền Bắc, miền Trung nước ta và Trung Quốc (miền Nam)

C obtusifolium và C.zeylanicum có từ Thanh Hóa trở về  miền Nam Việt Nam.

Quế Thanh Hóa (C. obtusifolium Nees var loureirii, Perrot et Eberh.) Là một cây thân gỗ, thẳng đứng, cao 12-20m, cành non có bốn cạnh, dẹt, nhẵn, lá hình trứng nhọn, dài, có 3 đường gân nổi rất rõ từ cuống lá đến đầu lá. Bông màu trắng mọc thành chùy ở kẽ lá hay đầu cành. Trái hạch hình trứng dài khoảng 1cm, lúc đầu xanh lục, khi chín màu tím.

Quế thanh mọc hoang và được trồng ở khắp vùng rừng núi nước ta, nhưng chủ yếu ở dọc dãy núi Trường Sơn từ Bắc (Thanh Hóa, Nghệ An) đến Nam (Quảng Nam, Quảng Ngãi). Tuy vậy, nhân dân ta và các cụ lương y đều cho rằng quế ở Thanh Hóa mới là quế tốt, mà quý nhất là ở vùng Trịnh vạn (huyện Thường Xuân). Nghệ An nổi tiếng có Quế quỳ (huyện Quỳ Châu, giáp với Thanh Hóa), Quảng Nam, uảng Ngãi, nổi tiếng có quế Trà My, Tiên Phước, Trà Bồng. Tây Bắc có quế Nghĩa Lộ.

Ngoài ra hiện nay Yên Bái, Nghĩa Lộ, Quảng Ninh cũng có những rừng quế từ lâu đời. Quế có thể trồng bằng hạt, sau 5 năm có thể thu hoạch, tốt nhất là tù 10-30 năm trở lên.

Thu hái chế biến: Nhục quế thu hoạch vào 2 mùa hè (tháng 4-6) và thu (tháng 9-11) là thời kỳ cây quế nhiều nhựa, dễ lột vỏ, không sót lòng. Lột lấy vỏ những cây đã mọc lâu năm, đường kính thân trên 20cm (cây quế 20-30 năm) gọi là Lão quế thì rất tốt) song đem ủ trong sọt có lót và đậy lá chuối khô tới khi có hơi nước ở quế bốc lên thì lấy ra đem phơi trong râm, lau chải, sửa, buộc, ép cho thẳng, hai mép uốn lại, theo hình dạng kích thước nhất định. Nếu uốn thành bản rộng, hai mép hơi cuộn lại thì gọi là Bình bản. Nếu cuốn thành ống dài thì gọi là Quyển đồng (quế ở Thanh Hóa).

Ở miền Trung Việt Nam thu hoạch vỏ quế theo hai vụ:

- Vụ tiền (tháng 2-4): chiếm 80p100 cả năm.

- Vụ hậu (tháng 8-10): còn gọi vụ thu, chất lượng giảm.

Theo Dược điển Trung Quốc 1963 thì quế Trung Quốc chỉ cần lột lấy vỏ, lúc đầu phơi nắng, sau sửa theo hình dạng nhất định, rồi phơi trong râm.

Quế Ceylon (còn gọi là Quế Xây Lan, Quế Tích Lan, Quế Srilanka, tên khoa học là Cinnamomum verum. Đây là một loại quế cao cấp, có nguồn gốc từ Sri Lanka và miền nam Ấn Độ, nổi tiếng với hương vị thơm, ngọt nhẹ và ít đắng hơn các loại quế khác như quế Cassia. Quế Ceylon được sử dụng rộng rãi làm gia vị trong các món ngọt, làm rượu và có nhiều công dụng trong y học cổ truyền) thì lột lấy vỏ, xếp thành chồng. Sau 2 giờ, cạo bỏ lớp vỏ chết (thụ bì) và hết lớp nhu mô vỏ, chỉ lấy lớp libe đem phơi cong thì quế tự cuộn lại.

Nhục quế múi thơm đặc biệt, vị ngọt cay. Nói chung, loại nhục quế không nát vụn, da vỏ ngoài mịn, thịt dày, mặt cắt ngang mùa đỏ tía nâu, nhiều dầu, mùi thơm đậm, vị ngọt cay, nhai không có cặn bã là tốt.

Dược điển Việt Nam 1983 quy định: quế phải chứa ít nhất 1p100 tinh dầu. Thủy phần không quá 14p100.

1. Loại nhục quế vỏ lấy cách mặt đất 0,20-1,20m, gọi là Quế hạ căn hay Quế hạ bản là kém.

Loại nhục quế, vỏ lấy ở trên 1,20m, gọi là Quế trung châu (phần giữa thân) và lấy ở trên đến chỗ cây chia cành thứ nhất, gọi là Quế thượng châu được gọi là tốt hơn cả. Vỏ bọc ở những cành to gọi là quế thượng biểu.

2. Quế chi: Vỏ lột ở những cành nhỏ gọi là quế chi, thu hoạch vào mùa xuân hè. Chặt lấy những cành non, bứt bỏ lá, cắt thành đoạn dài 30-60cm, lột vỏ hoặc để cả cành. Đầu ngọn cành non gọi là quế chi tiêm.

3. Quế thông là vỏ quế non mới 6-7 năm hay vỏ những cành nhánh, thường cuộn thành ống, vỏ mỏng ít dầu, mùi vị kém, hoặc lấy ở các cây quế thường, mọc ở các địa phương khác như Yên Bái, Nghĩa Lộ v.v... là loại quế thông thường dùng vào các việc hàng ngày, mọi nơi đều có bán.

4. Quế vụn: là loại quế đã vụn nát, thành mảnh nhỏ.

5. Quế tâm là lõi gốc đã lột vỏ, là loại quế kém nhất.

Theo kinh nghiệm cổ truyền: Quế Chính Sơn Thanh Hóa (gọi là Quế quan hay Quan quế) mọc ở nơi rừng thẳm núi cao, hổ báo nhiều, ít người đi lại, bẩm thụ những hậu khí của thiên nhiên, có cây sống đến hàng trăm năm, gọi là Lão quế, quý giá vô ngần. Có khi vào rừng ngửi thấy mùi quế mà tìm lâu mới thấy, gọi là Ngọc quế, uống và dẫn hỏa quy nguyên. Loại này da như da cây vải, thịt đỏ như chu sa, khi cắt ra mép phẳng, mịn như sáp, giữa chỗ dầu với thịt có đường chỉ phân tách rõ ràng như sợi chỉ bạc gọi là Phân du hương hay Bạch chỉ phân du (sợi chỉ này phải thẳng tắp, nếu ngòng ngoèo thì không tốt lắm) hương thơm mát, ngọt nhiều mà ít cay.

Thành phần hóa học: Trong vỏ quế (Nhục quế) thành phần chủ yếu là tinh dầu quế Aetheroleum Cinnamomi) trong đó Aldehyd cinnamic, eugenol, safrol, furfurol.

Tinh dầu quế đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1997) đã quy định rõ:

Tỉ trọng ở 20°C 1,045-1,072.

Tinh dầu phải chứa từ 80 đến 95p100 (tt/tt) aldehyd cinnamic C9H8O.

Tùy theo loại quế, tỉ lệ tinh dầu và thành phần tinh dầu khác nhau. Ngoài ra còn có chất tinh bột, chất nhầy, tannin, chất màu, đường nhựa, calci oxalate.

Trong quế thanh, tỉ lệ tinh dầu 1-5p100 trong đó có khoảng 95p100 aldehyd cinnamic, cao hơn các loại quế khác.

Trong quế Ceylon, tỉ lệ tinh dầu 0,5-2p100 trong đó có 65-75p100 aldehyd cinnamic.

Trong quế Trung Quốc, có độ 1,2p100 tinh dầu, chứa 75-90p100 aldehyd cinnamic.

Trong quế chi tỉ lệ tinh dầu 0,5p100 trong đó aldehyd connamic 75-85p100.

Công dụng: Quế chi được dùng trong cả Đông y và Tây y. Quế là một vị thuốc quý của Đông y, rất thông dụng. Cuốn sách thuốc của danh y Trọng Cảnh có 200 bài thuốc thì 60 bài dùng Quế chi.

1. Nhục quế: Theo Đông y, vị cay, ngọt, tính rất nóng, hơi rất độc, vào 3 kinh: Can, Thận, Tỳ.

Có tác dụng bổ mệnh môn, trừ lạnh, thông huyết mạch. Dùng chữa các chứng bệnh do mệnh nôn tướng hỏa (hỏa ở thận) không đủ, chân tay buốt lạnh, lạnh lưng, đau gối, mạch nhỏ (vi), đau bụng nôn mửa, trên nóng dưới lạnh, kinh bế, tiểu tiện khó khăn.

Liều dùng: 1-5g, nghiền thành bột, hoặc sắc hay ngâm rượu uống.

Theo Tây y, nhục quế có tác dụng: giúp tiêu hóa, thông mật, chống hen, chống sốt nóng, an thần.

Chữa mệt mỏi, chân lạnh, phụ nữ không thấy kinh, hoặc kinh khó khăn.

Về mặt dược lý người ta xác định quế có tác dụng kích thích, làm cho sự tuần hoàn được mau lẹ, hô hấp mạnh lên. Quế còn có tác dụng co mạch, làm tăng bài tiết, gây co bóp tử cung và tăng nhu động ruột. Tinh dầu quế còn có tính chất sát khuẩn, kháng sinh mạnh.

Lưu ý: Người thuộc chứng âm hư, dương thịnh, phụ nữ có thai không được dùng.

2. Quế chi: Theo Đông y, vị cay, ngọt, tính ấm vào 3 kinh Phế, Tâm, Bàng quang. Có tác dụng làm ra mồ hôi, giãn bắp thịt, chống lạnh, làm ấm cơ thể, thông mạch, lưu thông máu, giảm đau, lợi niệu.

Dùng chữa các chứng phong hàn biểu chứng, vai, cánh tay, khớp xương đau buốt, phụ nữ kinh nguyệt bế tắc bụng đau.

Theo Tây y: uống trong bệnh tiểu đường type 2.

Liều dùng: 3-9g, sắc uống.

Người thuộc chứng âm hư, hỏa vượng, phụ nữ có thai không được dùng.

Tây y dùng dưới dạng cồn quế, liều dùng 20-25g.

Xí nghiệp dược phẩm dùng quế chế thuốc Bát vị quế phụ.

Bài thuốc: 

Bài số 1: Chữa trúng phong (cảm, ngất), nhức đầu, sốt nóng, tắc, nghẹt mũi, sợ gió:

Quế chi                                                      4g

Cam thảo                                                   3g

Bạch thược                                                4g

Sinh khương                                              4g

Đại táo                                                       6g

Sắc uống, rồi ăn cháo nóng, đắp mền.

Bài số 2: Chữa phong thấp, đau nhức mà không thấy các biểu hiện nhiệt:

Quế chi                                                      9g

Cam thảo                                                   6g

Đại táo                                                   3 trái

Phụ tử chế                                                 9g

Gừng sống                                                9g

Sắc uống.

Bài số 3: Chữa yếu thận, chân phù thũng, trướng đầy:

Cam địa hoàng                                         8g

Sơn dược                                                 8g

Sơn thù du                                               6g

Trạch tả                                                    6g

Đan bì                                                      4g

Phụ tử chế                                               4g

Xa tiền tử                                                 4g

Phục linh                                                  8g

Quế nhục                                                 2g

Ngưu tất                                                  6g

Tán nhỏ, luyện mật làm viên, uống mỗi lần 3-6g, mỗi ngày 2-3 lần.

Bảo quản: Cần để nơi khô ráo râm mát, trong lọ, hộp kín để giữ khí vị, mùi thơm tinh dầu. Khi dùng dở nên miết sáp 2 đầu cho dầu thơm khỏi thoát ra ngoài.

Biệt dược (phối hợp): Hoàng kỳ kiến trung thang - Bát vị quế phụ - Vạn ứng cao.

Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang

Nguyên bản bài thuốc:

(Kim quĩ yếu lược)

Hoàng kỳ kiến trung
Hoàng kỳ                                               60g
Quế chi                                               12g
Đại táo                                                   4 trái
Bạch thược                                               24g
Cam thảo                                               12g
Sinh khương                                        12g
Di đường                                               50g

Cách dùng và lượng dùng: Thang. 

Sắc chung tất cả các vị thuốc thực vật, sau đó bỏ bã rồi trộn 20g A giao, sau đó tiếp tục đun sôi thêm 5 phút nữa. Uống lúc nước còn ấm.

Công dụng: Trị các chứng thể chất suy nhược, suy nhược sau khi bị ốm nặng hoặc đổ mồ hôi trộm ở những người thể chất yếu và dễ mệt mỏi.

Giải thích: Theo sách Kim quỹ yếu lược: Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang vốn là bài Tiểu kiến trung thang có thêm Hoàng kỳ. Theo những tài liệu tham khảo như Thực tế trị liệu, Thực tế ứng dụng, Các bài thuốc đơn giản, Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang còn có tác dụng: 1. Trị các chứng trẻ con gầy yếu, tiểu đêm, khóc đêm, viêm phúc mạc mạn tính nhẹ, đổ mồ hôi trộm, đau bụng và viêm tai giữa mạn tính ở những người có thể trạng yếu dễ mệt mỏi. 2. Dùng để trị cho những đứa trẻ suy nhược, những người suy nhược sau khi ốm nặng, trĩ rũ và các dạng trĩ khác, viêm tai giữa mạn tính, viêm xương mạn tính (Karies), loét mạn tính và các chứng viêm có mủ khác. 3. Dùng cho những người thể chất yếu dễ mệt mỏi, thành bụng mỏng, cơ thẳng bụng co thắt, đổ mồ hôi trộm và để cải thiện thể trạng suy yếu.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.

Bạch thược phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm - không được dùng chung với Lê lô.

Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.

Vị thuốc Quế chi tính nóng kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng phải cẩn thận.

Bài thuốc Quế Phụ Bát Vị Hoàn

Nguyên bản bài thuốc

Y Phương Tập Giải.

Uông Ngang

Chủ trị: Ôn bổ thận khí. Trị thận khí bất túc, tướng hỏa ở thận không đủ, lưng đau, thiếu hơi. Mạch ở bộ xích nhược, thủy thũng, cước khí, tiêu khát, tiêu chảy.

Thành phần bài thuốc:

Bạch phục linh                                       120g

Hoài sơn                                                 160g

Mẫu đơn bì                                             120g

Nhục quế                                                 40g

Phụ tử                                                      40g

Sơn thù                                                  160g

Thục địa                                                 320g

Trạch tả                                                  120g

Dùng Sa nhân sắc nước và rượu rưới vào Thục địa, đem chưng, rồi lại tẩm, lại chưng 9 lần. Giã nát thành cao. Các vị thuốc tán bột, trộn vào cao, làm hoàn. Ngày uống 8 – 12g với nước muối loãng. Mùa đông uống với rượu.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.

Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính.

Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung.

Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng.

Vị thuốc Đơn bì kỵ thai khi dùng cần chú ý.

Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng cần chú ý.

Thục địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

Bài thuốc Vạn Ứng Cao: 

Nguyên bản bài thuốc:

Y Tông Kim Giám, Q.62.

Ngô Khiêm

Chủ trị: Trị ung nhọt (thư), phát bối, đờm hạch (lao hạch).

Thành phần bài thuốc:

Bạch cập

Bạch chỉ

Bạch liễm

Cam thảo

Đại hoàng

Định phấn

Độc hoạt

Đương quy

Khổ sâm

Khương hoạt

Mộc miết

Nhân sâm

Ô dược

Quan quế

Sinh địa

Thảo ô

Tượng bì

Xích thược

Xuyên ô

Xuyên sơn giáp

Đều 20g. Trừ Định phấn ra. Dùng dầu thơm ngâm thuốc.

· Mùa Xuân 5 ngày

· Mùa Thu 7 ngày

· Mùa hè 3 ngày

· Mùa Đông 10 ngày

Cho vào 1 nồi lớn, nung chín cho thuốc khô, đang lúc thuốc còn nóng, dùng vải mỏng lọc bỏ bã, thêm dầu 500g và Định phấn 250g, nấu thành cao, dùng để bôi ngoài.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.

Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô.

Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.

Xích thược phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.

Bạch liễm phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.

Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.

Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

Xuyên ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.

Xuyên ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.

Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.

Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.

Bài thuốc Vạn Ứng Cao II

Nguyên bản bài thuốc

Thanh Nang Bí Truyền.

Chủ trị: Trị ngoại thương thể âm chứng.

Thành phần bài thuốc:

Bán hạ                                                         16g

Đại hoàng                                                    12g

Đào nhân                                                     12g

Độc hoạt                                                      12g

Đương quy                                                  20g

Hồng hoa                                                    12g

Khương hoạt                                                6g

Lưu hoàng                                                  320g

Mật đà tăng                                                120g

Nam tinh (chế)                                             16g

Sinh khương                                                80g

Thảo ô                                                         12g

Tùng hương                                                  2g

Xuyên ô                                                       16g

Thêm Hành (tùy dùng). Cho dầu mè 500g vào, nấu cho khô, bỏ bã, nấu tiếp cho sền sệt, cho Tùng hương, Mật đà tăng và Lưu hoàng vào, trộn thành cao dùng để bôi.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.

Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.

Vị thuốc Nam tinh có độc kỵ thai, kỵ thai, thuốc phải được chế biến đúng cách để loại trừ độc tính.

Vị thuốc Đào nhân hoạt huyết kỵ thai, có thai dùng thận trọng.

Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.

Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

Xuyên ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.

Xuyên ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.

Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.

Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.

Bài thuốc Vạn Ứng Linh Cao

Nguyên bản bài thuốc

Thanh Nang Bí Truyền.

Chủ trị: Trị khớp xương đau nhức, té ngã tổn thương, tả lỵ, phụ nữ bị xích đới hạ.

Thành phần bài thuốc:

Bạch cập

Bạch linh

Bán hạ

Cam thảo

Đào chi

Đương quy

Hòe chi

Khổ sâm

Khương hoạt

Liên kiều

Liễu chi

Mộc miết tử

Ngũ linh chi

Ô dược

Phòng phong

Sinh địa

Sơn nại

Tang chi

Táo chi

Tạo giáp

Xuyên khung

Đều 40g. Dùng dầu mè 2,5 lít, nấu với thuốc cho khô, bỏ bã. Thêm Huyết dư (tóc) 60g vào, sao cho tan, nấu thành cao. Thêm các vị:

A ngùy                                                         40g

Đinh hương                                                 40g

Giáp phiến                                                  40g

Lương khương                                           40g

Một dược                                                   40g

Nhũ hương                                                40g

Phụ tử                                                       40g

Quan quế                                                  40g

Tế tân                                                        40g

Thảo ô                                                       40g

Xạ hương                                                    4g

Tán bột, trộn với cao, dùng để bôi.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả

Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính

Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung

Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng

Trong bài vị Tế tân rất nóng và có độc và phản với vị Lê lô. cần chú ý liều dùng, không gia quá nhiều, và không dùng chung với Lê lô

Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng

Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý

Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý

Vị thuốc Đinh hương kỵ với Uất kim, khi dùng cần chú ý

Vị thuốc Xạ hương có độc, kỵ thai không nên dùng lâu dài

Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ

Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ

Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng

Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.

Bài thuốc Vạn Ứng Hoàn III

Nguyên bản bài thuốc

Bí Phương.

Chủ trị: Trị trong bụng có giun, thực tích kết thành khối, bụng đau, trẻ nhỏ bị cam.

Thành phần bài thuốc:

Can tất                                                      20g

Cao lương khương                                     8g

Chích thảo                                                12g

Hồ Hoàng liên                                           12g

Lôi hoàn                                                    20g

Mạch nghiệt                                              20g

Mộc hương                                               12g

Nga truật                                                  20g

Quất hồng                                                20g

Sa nhân                                                     8g

Sử quân tử                                              20g

Tam lăng                                                 20g

 Binh lang                                                40g

Thần khúc                                               20g

Trần bì                                                     20g

Vãn tằm                                                   12g

Vô quyển                                                                    10g

Tán bột, trộn với giấm làm hoàn.

Ngày uống 12–16g với nước sắc Gừng, lúc đói.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả

Vị thuốc Tam lăng kỵ với Nha tiêu, và kỵ thai khi dùng cần chú ý

Vị thuốc Nga truật kỵ thai, có thai dùng thận trọng

Thần khúc Tỳ âm hư vị hỏa thịnh không nên dùng, phụ nữ có thai nên ít dùng

Vị thuốc Can tất kỵ thai, người có thai không nên dùng

Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

Bài thuốc Thái Ất Vạn Linh Cao

Nguyên bản bài thuốc

Dương Y Đại Toàn.

Cố Thế Trường

Chủ trị: Trị phát bối, các loại mụn nhọt, hạch đờm, lao hạch (loa lịch), gân cốt bị tổn thương, tay chân tê, đau nhức.

Thành phần bài thuốc:

Ba đậu

Bạch cập

Bạch cương tằm

Bạch liễm

Bán chi liên

Bồ công anh

Cam thảo

Cát cánh

Chi tử

Côn bố

Đại hoàng

Đại phong tử

Đào nhân

Địa cốt bì

Độc hoạt

Đương quy

Hà thủ ô

Hắc Khiên ngưu

Hoàng bá

Hoàng cầm

Hoàng kỳ

Hoàng liên

Hòe chi

Hòe giác tử

Huyền sâm

Huyết kiệt

Khổ sâm

Khương hoạt

Kinh giới

Lê lô

Liên kiều

Liễu chi

Long đởm thảo

Mộc hương

Mộc miết tử

Ngải diệp

Ngô công

Ngưu tất

Nhẫn đông đằng

Nhục quế

Phòng phong

Phụ tử

Quá tiên long

Quảng bì

Binh lang

Thạch xương hồ

Thanh cao

Thăng ma

Thuyền thoái

Thương nhĩ tử

Thương truật

Thử niêm tử

Trư nha 

Tạo giác

Tỳ ma nhân

Xà sàng tử

Xà thoái

Xích thược

Xuyên sơn giáp

Xuyên tiêu

Đều 40g. Dùng 6.400g dầu ngâm với thuốc:

· Mùa xuân: 5 ngày

· Mùa thu: 4 ngày

· Mùa hạ: 3 ngày

· Mùa đông: 7 ngày.

Sau đó, nấu thành cao. Dùng để bôi ngoài da.

Lưu ý khi dùng thuốc:

Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.

Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính.

Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung.

Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng.

Trong bài có Ba đậu rất độc không dùng quá liều. Nếu bị ngộ độc, dùng Ðậu đen, Ðậu xanh, Ðậu đũa hoặc Hoàng liên nấu nước uống để giải độc. Người có thai kỵ dùng.

Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.

Xích thược phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Huyền sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.

Ngưu tất có tính hoạt huyết tương đối mạnh và đi xuống, là vị thuốc kỵ thai, có thai dùng thận trọng.

Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý

Bạch liễm phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.

Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng cần chú ý.

Vị thuốc Ba đậu kỵ Thạch hộc không nên dùng chung.

Ba đậu kỵ thai, có thai dùng thận trọng.

Vị thuốc Đào nhân hoạt huyết kỵ thai, có thai dùng thận trọng.

Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.

Vị thuốc Ngô công kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.

Vị thuốc Thuyền thoái làm cho dễ đẻ phụ nữ có thai không nên dùng.

Vị thuốc Tạo giác cũng như Tạo giác thích có tính thông khiếu mạnh nên kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.

Vị thuốc Khiên ngưu kỵ thai, người có thai không nên dùng.

Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ

Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ


Lưu ý: Ở nước ta có một số loài quế khác, có ở nhiều nơi, cũng được dùng thay thế 3 loài Quế thanh, Quế bì và Quế quan, hoặc trà trộn lẫn khi bán để kiếm lời.

- Quế Bắc bộ: Cinnamomum tonkinensis (Lecomte) A. Chev có từ Ninh Bình đến Quảng Nam Đà Nẵng.

- Quế Bon: Cinnamomum bonii Lecomte. Có từ Lào Cai, Hòa Bình đến Miền Nam.

- Quế Hoa trắng: Cinnamomum tamala (Buch - Ham) Nees et Eberm. Có ở Phú Thọ, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên.

- Quế hương: Cinnamomum bejolghota (Buch - Ham) Sweet. Có ở Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.

- Quế lá hẹp: Cinnamomum burmannii (Nees - et J.Nees) Blume var angustifolium, có ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam.

- Quế rành: Cinnamomum burmannii (Nees et J.Nees) Blume. Có từ Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên. Khi sử dụng cần phân biệt nguồn gốc.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - NELUMBIUM SPECIOSUM WILLD. (SEN)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - NELUMBIUM SPECIOSUM WILLD. (SEN) SEN 荷花 Héhuā/莲花 Liánhuā Tên khoa học: Nelumbium speciosum Willd. họ Sen (Nelumbonace...