MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - CINNAMOMUM OBTUSIFOLIUM NEES (QUẾ )
QUẾ 桂 Guì
Tên khoa học: Cinnamomum obtusifolium Nees, còn gọi là Quế thanh, Ngọc quế.
- Cinnamomum cassia Presl. Còn gọi Quế đơn, quế Trung Quốc.
- Cinnamomum zeylancicum Breyn. Còn gọi Quế Srilanka.
DĐVN (1983) ghi 3 loài trên đều thuộc họ Long não (Lauraceae).
DĐTQ (1963) (1997) chỉ ghi một cây Quế: Cinnamomum cassia.
Dược điển Pháp (1965) ghi dùng 1 cây: Cinnamomum zeylanicum.
Tên khác: Cannellier - Cannelle de Ceylan (Pháp) - Ceylon Cinnamon - Cinnamon bark - Cassia Bark (Anh).


Bộ phận dùng: Vỏ thân cây quế 桂皮 Guìpí đã chế biến khô (Cortex Cinnamomi) còn gọi là Ngọc quế, Quế bì.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963), (1997).
- Cành quế non đã chế biến khô (Ramulus Cinamomi) còn gọi là Quế chi, Cassia Twig (Anh).
Đã được ghi vào DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cả ba loài quế kể trên đều có ở Việt Nam.
C. cassia có nhiều ở miền Bắc, miền Trung nước ta và Trung Quốc (miền Nam)
C obtusifolium và C.zeylanicum có từ Thanh Hóa trở về miền Nam Việt Nam.
Quế Thanh Hóa (C. obtusifolium Nees var loureirii, Perrot et Eberh.) Là một cây thân gỗ, thẳng đứng, cao 12-20m, cành non có bốn cạnh, dẹt, nhẵn, lá hình trứng nhọn, dài, có 3 đường gân nổi rất rõ từ cuống lá đến đầu lá. Bông màu trắng mọc thành chùy ở kẽ lá hay đầu cành. Trái hạch hình trứng dài khoảng 1cm, lúc đầu xanh lục, khi chín màu tím.
Quế thanh mọc hoang và được trồng ở khắp vùng rừng núi nước ta, nhưng chủ yếu ở dọc dãy núi Trường Sơn từ Bắc (Thanh Hóa, Nghệ An) đến Nam (Quảng Nam, Quảng Ngãi). Tuy vậy, nhân dân ta và các cụ lương y đều cho rằng quế ở Thanh Hóa mới là quế tốt, mà quý nhất là ở vùng Trịnh vạn (huyện Thường Xuân). Nghệ An nổi tiếng có Quế quỳ (huyện Quỳ Châu, giáp với Thanh Hóa), Quảng Nam, uảng Ngãi, nổi tiếng có quế Trà My, Tiên Phước, Trà Bồng. Tây Bắc có quế Nghĩa Lộ.
Ngoài ra hiện nay Yên Bái, Nghĩa Lộ, Quảng Ninh cũng có những rừng quế từ lâu đời. Quế có thể trồng bằng hạt, sau 5 năm có thể thu hoạch, tốt nhất là tù 10-30 năm trở lên.
Thu hái chế biến: Nhục quế thu hoạch vào 2 mùa hè (tháng 4-6) và thu (tháng 9-11) là thời kỳ cây quế nhiều nhựa, dễ lột vỏ, không sót lòng. Lột lấy vỏ những cây đã mọc lâu năm, đường kính thân trên 20cm (cây quế 20-30 năm) gọi là Lão quế thì rất tốt) song đem ủ trong sọt có lót và đậy lá chuối khô tới khi có hơi nước ở quế bốc lên thì lấy ra đem phơi trong râm, lau chải, sửa, buộc, ép cho thẳng, hai mép uốn lại, theo hình dạng kích thước nhất định. Nếu uốn thành bản rộng, hai mép hơi cuộn lại thì gọi là Bình bản. Nếu cuốn thành ống dài thì gọi là Quyển đồng (quế ở Thanh Hóa).
Ở miền Trung Việt Nam thu hoạch vỏ quế theo hai vụ:
- Vụ tiền (tháng 2-4): chiếm 80p100 cả năm.
- Vụ hậu (tháng 8-10): còn gọi vụ thu, chất lượng giảm.
Theo Dược điển Trung Quốc 1963 thì quế Trung Quốc chỉ cần lột lấy vỏ, lúc đầu phơi nắng, sau sửa theo hình dạng nhất định, rồi phơi trong râm.
Quế Ceylon (còn gọi là Quế Xây Lan, Quế Tích Lan, Quế Srilanka, tên khoa học là Cinnamomum verum. Đây là một loại quế cao cấp, có nguồn gốc từ Sri Lanka và miền nam Ấn Độ, nổi tiếng với hương vị thơm, ngọt nhẹ và ít đắng hơn các loại quế khác như quế Cassia. Quế Ceylon được sử dụng rộng rãi làm gia vị trong các món ngọt, làm rượu và có nhiều công dụng trong y học cổ truyền) thì lột lấy vỏ, xếp thành chồng. Sau 2 giờ, cạo bỏ lớp vỏ chết (thụ bì) và hết lớp nhu mô vỏ, chỉ lấy lớp libe đem phơi cong thì quế tự cuộn lại.
Nhục quế múi thơm đặc biệt, vị ngọt cay. Nói chung, loại nhục quế không nát vụn, da vỏ ngoài mịn, thịt dày, mặt cắt ngang mùa đỏ tía nâu, nhiều dầu, mùi thơm đậm, vị ngọt cay, nhai không có cặn bã là tốt.
Dược điển Việt Nam 1983 quy định: quế phải chứa ít nhất 1p100 tinh dầu. Thủy phần không quá 14p100.
1. Loại nhục quế vỏ lấy cách mặt đất 0,20-1,20m, gọi là Quế hạ căn hay Quế hạ bản là kém.
Loại nhục quế, vỏ lấy ở trên 1,20m, gọi là Quế trung châu (phần giữa thân) và lấy ở trên đến chỗ cây chia cành thứ nhất, gọi là Quế thượng châu được gọi là tốt hơn cả. Vỏ bọc ở những cành to gọi là quế thượng biểu.
2. Quế chi: Vỏ lột ở những cành nhỏ gọi là quế chi, thu hoạch vào mùa xuân hè. Chặt lấy những cành non, bứt bỏ lá, cắt thành đoạn dài 30-60cm, lột vỏ hoặc để cả cành. Đầu ngọn cành non gọi là quế chi tiêm.
3. Quế thông là vỏ quế non mới 6-7 năm hay vỏ những cành nhánh, thường cuộn thành ống, vỏ mỏng ít dầu, mùi vị kém, hoặc lấy ở các cây quế thường, mọc ở các địa phương khác như Yên Bái, Nghĩa Lộ v.v... là loại quế thông thường dùng vào các việc hàng ngày, mọi nơi đều có bán.
4. Quế vụn: là loại quế đã vụn nát, thành mảnh nhỏ.
5. Quế tâm là lõi gốc đã lột vỏ, là loại quế kém nhất.
Theo kinh nghiệm cổ truyền: Quế Chính Sơn Thanh Hóa (gọi là Quế quan hay Quan quế) mọc ở nơi rừng thẳm núi cao, hổ báo nhiều, ít người đi lại, bẩm thụ những hậu khí của thiên nhiên, có cây sống đến hàng trăm năm, gọi là Lão quế, quý giá vô ngần. Có khi vào rừng ngửi thấy mùi quế mà tìm lâu mới thấy, gọi là Ngọc quế, uống và dẫn hỏa quy nguyên. Loại này da như da cây vải, thịt đỏ như chu sa, khi cắt ra mép phẳng, mịn như sáp, giữa chỗ dầu với thịt có đường chỉ phân tách rõ ràng như sợi chỉ bạc gọi là Phân du hương hay Bạch chỉ phân du (sợi chỉ này phải thẳng tắp, nếu ngòng ngoèo thì không tốt lắm) hương thơm mát, ngọt nhiều mà ít cay.
Thành phần hóa học: Trong vỏ quế (Nhục quế) thành phần chủ yếu là tinh dầu quế Aetheroleum Cinnamomi) trong đó Aldehyd cinnamic, eugenol, safrol, furfurol.
Tinh dầu quế đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1997) đã quy định rõ:
Tỉ trọng ở 20°C 1,045-1,072.
Tinh dầu phải chứa từ 80 đến 95p100 (tt/tt) aldehyd cinnamic C9H8O.
Tùy theo loại quế, tỉ lệ tinh dầu và thành phần tinh dầu khác nhau. Ngoài ra còn có chất tinh bột, chất nhầy, tannin, chất màu, đường nhựa, calci oxalate.
Trong quế thanh, tỉ lệ tinh dầu 1-5p100 trong đó có khoảng 95p100 aldehyd cinnamic, cao hơn các loại quế khác.
Trong quế Ceylon, tỉ lệ tinh dầu 0,5-2p100 trong đó có 65-75p100 aldehyd cinnamic.
Trong quế Trung Quốc, có độ 1,2p100 tinh dầu, chứa 75-90p100 aldehyd cinnamic.
Trong quế chi tỉ lệ tinh dầu 0,5p100 trong đó aldehyd connamic 75-85p100.
Công dụng: Quế chi được dùng trong cả Đông y và Tây y. Quế là một vị thuốc quý của Đông y, rất thông dụng. Cuốn sách thuốc của danh y Trọng Cảnh có 200 bài thuốc thì 60 bài dùng Quế chi.
1. Nhục quế: Theo Đông y, vị cay, ngọt, tính rất nóng, hơi rất độc, vào 3 kinh: Can, Thận, Tỳ.
Có tác dụng bổ mệnh môn, trừ lạnh, thông huyết mạch. Dùng chữa các chứng bệnh do mệnh nôn tướng hỏa (hỏa ở thận) không đủ, chân tay buốt lạnh, lạnh lưng, đau gối, mạch nhỏ (vi), đau bụng nôn mửa, trên nóng dưới lạnh, kinh bế, tiểu tiện khó khăn.
Liều dùng: 1-5g, nghiền thành bột, hoặc sắc hay ngâm rượu uống.
Theo Tây y, nhục quế có tác dụng: giúp tiêu hóa, thông mật, chống hen, chống sốt nóng, an thần.
Chữa mệt mỏi, chân lạnh, phụ nữ không thấy kinh, hoặc kinh khó khăn.
Về mặt dược lý người ta xác định quế có tác dụng kích thích, làm cho sự tuần hoàn được mau lẹ, hô hấp mạnh lên. Quế còn có tác dụng co mạch, làm tăng bài tiết, gây co bóp tử cung và tăng nhu động ruột. Tinh dầu quế còn có tính chất sát khuẩn, kháng sinh mạnh.
Lưu ý: Người thuộc chứng âm hư, dương thịnh, phụ nữ có thai không được dùng.
2. Quế chi: Theo Đông y, vị cay, ngọt, tính ấm vào 3 kinh Phế, Tâm, Bàng quang. Có tác dụng làm ra mồ hôi, giãn bắp thịt, chống lạnh, làm ấm cơ thể, thông mạch, lưu thông máu, giảm đau, lợi niệu.
Dùng chữa các chứng phong hàn biểu chứng, vai, cánh tay, khớp xương đau buốt, phụ nữ kinh nguyệt bế tắc bụng đau.
Theo Tây y: uống trong bệnh tiểu đường type 2.
Liều dùng: 3-9g, sắc uống.
Người thuộc chứng âm hư, hỏa vượng, phụ nữ có thai không được dùng.
Tây y dùng dưới dạng cồn quế, liều dùng 20-25g.
Xí nghiệp dược phẩm dùng quế chế thuốc Bát vị quế phụ.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa trúng phong (cảm, ngất), nhức đầu, sốt nóng, tắc, nghẹt mũi, sợ gió:
Quế chi 4g
Cam thảo 3g
Bạch thược 4g
Sinh khương 4g
Đại táo 6g
Sắc uống, rồi ăn cháo nóng, đắp mền.
Bài số 2: Chữa phong thấp, đau nhức mà không thấy các biểu hiện nhiệt:
Quế chi 9g
Cam thảo 6g
Đại táo 3 trái
Phụ tử chế 9g
Gừng sống 9g
Sắc uống.
Bài số 3: Chữa yếu thận, chân phù thũng, trướng đầy:
Cam địa hoàng 8g
Sơn dược 8g
Sơn thù du 6g
Trạch tả 6g
Đan bì 4g
Phụ tử chế 4g
Xa tiền tử 4g
Phục linh 8g
Quế nhục 2g
Ngưu tất 6g
Tán nhỏ, luyện mật làm viên, uống mỗi lần 3-6g, mỗi ngày 2-3 lần.
Bảo quản: Cần để nơi khô ráo râm mát, trong lọ, hộp kín để giữ khí vị, mùi thơm tinh dầu. Khi dùng dở nên miết sáp 2 đầu cho dầu thơm khỏi thoát ra ngoài.
Biệt dược (phối hợp): Hoàng kỳ kiến trung thang - Bát vị quế phụ - Vạn ứng cao.
Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang
Nguyên bản bài thuốc:
(Kim quĩ yếu lược)
Hoàng kỳ kiến trung
Hoàng kỳ 60g
Quế chi 12g
Đại táo 4 trái
Bạch thược 24g
Cam thảo 12g
Sinh khương 12g
Di đường 50g
Cách dùng và lượng dùng: Thang.
Sắc chung tất cả các vị thuốc thực vật, sau đó bỏ bã rồi trộn 20g A giao, sau đó tiếp tục đun sôi thêm 5 phút nữa. Uống lúc nước còn ấm.
Công dụng: Trị các chứng thể chất suy nhược, suy nhược sau khi bị ốm nặng hoặc đổ mồ hôi trộm ở những người thể chất yếu và dễ mệt mỏi.
Giải thích: Theo sách Kim quỹ yếu lược: Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang vốn là bài Tiểu kiến trung thang có thêm Hoàng kỳ. Theo những tài liệu tham khảo như Thực tế trị liệu, Thực tế ứng dụng, Các bài thuốc đơn giản, Bài thuốc Hoàng kỳ kiến trung thang còn có tác dụng: 1. Trị các chứng trẻ con gầy yếu, tiểu đêm, khóc đêm, viêm phúc mạc mạn tính nhẹ, đổ mồ hôi trộm, đau bụng và viêm tai giữa mạn tính ở những người có thể trạng yếu dễ mệt mỏi. 2. Dùng để trị cho những đứa trẻ suy nhược, những người suy nhược sau khi ốm nặng, trĩ rũ và các dạng trĩ khác, viêm tai giữa mạn tính, viêm xương mạn tính (Karies), loét mạn tính và các chứng viêm có mủ khác. 3. Dùng cho những người thể chất yếu dễ mệt mỏi, thành bụng mỏng, cơ thẳng bụng co thắt, đổ mồ hôi trộm và để cải thiện thể trạng suy yếu.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Bạch thược phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm - không được dùng chung với Lê lô.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Vị thuốc Quế chi tính nóng kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng phải cẩn thận.
Bài thuốc Quế Phụ Bát Vị Hoàn
Nguyên bản bài thuốc
Y Phương Tập Giải.
Uông Ngang
Chủ trị: Ôn bổ thận khí. Trị thận khí bất túc, tướng hỏa ở thận không đủ, lưng đau, thiếu hơi. Mạch ở bộ xích nhược, thủy thũng, cước khí, tiêu khát, tiêu chảy.
Thành phần bài thuốc:
Bạch phục linh 120g
Hoài sơn 160g
Mẫu đơn bì 120g
Nhục quế 40g
Phụ tử 40g
Sơn thù 160g
Thục địa 320g
Trạch tả 120g
Dùng Sa nhân sắc nước và rượu rưới vào Thục địa, đem chưng, rồi lại tẩm, lại chưng 9 lần. Giã nát thành cao. Các vị thuốc tán bột, trộn vào cao, làm hoàn. Ngày uống 8 – 12g với nước muối loãng. Mùa đông uống với rượu.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính.
Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung.
Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng.
Vị thuốc Đơn bì kỵ thai khi dùng cần chú ý.
Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng cần chú ý.
Thục địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Bài thuốc Vạn Ứng Cao:
Nguyên bản bài thuốc:
Y Tông Kim Giám, Q.62.
Ngô Khiêm
Chủ trị: Trị ung nhọt (thư), phát bối, đờm hạch (lao hạch).
Thành phần bài thuốc:
Bạch cập
Bạch chỉ
Bạch liễm
Cam thảo
Đại hoàng
Định phấn
Độc hoạt
Đương quy
Khổ sâm
Khương hoạt
Mộc miết
Nhân sâm
Ô dược
Quan quế
Sinh địa
Thảo ô
Tượng bì
Xích thược
Xuyên ô
Xuyên sơn giáp
Đều 20g. Trừ Định phấn ra. Dùng dầu thơm ngâm thuốc.
· Mùa Xuân 5 ngày
· Mùa Thu 7 ngày
· Mùa hè 3 ngày
· Mùa Đông 10 ngày
Cho vào 1 nồi lớn, nung chín cho thuốc khô, đang lúc thuốc còn nóng, dùng vải mỏng lọc bỏ bã, thêm dầu 500g và Định phấn 250g, nấu thành cao, dùng để bôi ngoài.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Xích thược phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Bạch liễm phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Xuyên ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.
Xuyên ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.
Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Bài thuốc Vạn Ứng Cao II
Nguyên bản bài thuốc
Thanh Nang Bí Truyền.
Chủ trị: Trị ngoại thương thể âm chứng.
Thành phần bài thuốc:
Bán hạ 16g
Đại hoàng 12g
Đào nhân 12g
Độc hoạt 12g
Đương quy 20g
Hồng hoa 12g
Khương hoạt 6g
Lưu hoàng 320g
Mật đà tăng 120g
Nam tinh (chế) 16g
Sinh khương 80g
Thảo ô 12g
Tùng hương 2g
Xuyên ô 16g
Thêm Hành (tùy dùng). Cho dầu mè 500g vào, nấu cho khô, bỏ bã, nấu tiếp cho sền sệt, cho Tùng hương, Mật đà tăng và Lưu hoàng vào, trộn thành cao dùng để bôi.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Vị thuốc Nam tinh có độc kỵ thai, kỵ thai, thuốc phải được chế biến đúng cách để loại trừ độc tính.
Vị thuốc Đào nhân hoạt huyết kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Xuyên ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.
Xuyên ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng.
Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Bài thuốc Vạn Ứng Linh Cao
Nguyên bản bài thuốc
Thanh Nang Bí Truyền.
Chủ trị: Trị khớp xương đau nhức, té ngã tổn thương, tả lỵ, phụ nữ bị xích đới hạ.
Thành phần bài thuốc:
Bạch cập
Bạch linh
Bán hạ
Cam thảo
Đào chi
Đương quy
Hòe chi
Khổ sâm
Khương hoạt
Liên kiều
Liễu chi
Mộc miết tử
Ngũ linh chi
Ô dược
Phòng phong
Sinh địa
Sơn nại
Tang chi
Táo chi
Tạo giáp
Xuyên khung
Đều 40g. Dùng dầu mè 2,5 lít, nấu với thuốc cho khô, bỏ bã. Thêm Huyết dư (tóc) 60g vào, sao cho tan, nấu thành cao. Thêm các vị:
A ngùy 40g
Đinh hương 40g
Giáp phiến 40g
Lương khương 40g
Một dược 40g
Nhũ hương 40g
Phụ tử 40g
Quan quế 40g
Tế tân 40g
Thảo ô 40g
Xạ hương 4g
Tán bột, trộn với cao, dùng để bôi.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính
Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung
Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng
Trong bài vị Tế tân rất nóng và có độc và phản với vị Lê lô. cần chú ý liều dùng, không gia quá nhiều, và không dùng chung với Lê lô
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng
Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
Vị thuốc Đinh hương kỵ với Uất kim, khi dùng cần chú ý
Vị thuốc Xạ hương có độc, kỵ thai không nên dùng lâu dài
Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ
Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng
Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Bài thuốc Vạn Ứng Hoàn III
Nguyên bản bài thuốc
Bí Phương.
Chủ trị: Trị trong bụng có giun, thực tích kết thành khối, bụng đau, trẻ nhỏ bị cam.
Thành phần bài thuốc:
Can tất 20g
Cao lương khương 8g
Chích thảo 12g
Hồ Hoàng liên 12g
Lôi hoàn 20g
Mạch nghiệt 20g
Mộc hương 12g
Nga truật 20g
Quất hồng 20g
Sa nhân 8g
Sử quân tử 20g
Tam lăng 20g
Binh lang 40g
Thần khúc 20g
Trần bì 20g
Vãn tằm 12g
Vô quyển 10g
Tán bột, trộn với giấm làm hoàn.
Ngày uống 12–16g với nước sắc Gừng, lúc đói.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Vị thuốc Tam lăng kỵ với Nha tiêu, và kỵ thai khi dùng cần chú ý
Vị thuốc Nga truật kỵ thai, có thai dùng thận trọng
Thần khúc Tỳ âm hư vị hỏa thịnh không nên dùng, phụ nữ có thai nên ít dùng
Vị thuốc Can tất kỵ thai, người có thai không nên dùng
Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Bài thuốc Thái Ất Vạn Linh Cao
Nguyên bản bài thuốc
Dương Y Đại Toàn.
Cố Thế Trường
Chủ trị: Trị phát bối, các loại mụn nhọt, hạch đờm, lao hạch (loa lịch), gân cốt bị tổn thương, tay chân tê, đau nhức.
Thành phần bài thuốc:
Ba đậu
Bạch cập
Bạch cương tằm
Bạch liễm
Bán chi liên
Bồ công anh
Cam thảo
Cát cánh
Chi tử
Côn bố
Đại hoàng
Đại phong tử
Đào nhân
Địa cốt bì
Độc hoạt
Đương quy
Hà thủ ô
Hắc Khiên ngưu
Hoàng bá
Hoàng cầm
Hoàng kỳ
Hoàng liên
Hòe chi
Hòe giác tử
Huyền sâm
Huyết kiệt
Khổ sâm
Khương hoạt
Kinh giới
Lê lô
Liên kiều
Liễu chi
Long đởm thảo
Mộc hương
Mộc miết tử
Ngải diệp
Ngô công
Ngưu tất
Nhẫn đông đằng
Nhục quế
Phòng phong
Phụ tử
Quá tiên long
Quảng bì
Binh lang
Thạch xương hồ
Thanh cao
Thăng ma
Thuyền thoái
Thương nhĩ tử
Thương truật
Thử niêm tử
Trư nha
Tạo giác
Tỳ ma nhân
Xà sàng tử
Xà thoái
Xích thược
Xuyên sơn giáp
Xuyên tiêu
Đều 40g. Dùng 6.400g dầu ngâm với thuốc:
· Mùa xuân: 5 ngày
· Mùa thu: 4 ngày
· Mùa hạ: 3 ngày
· Mùa đông: 7 ngày.
Sau đó, nấu thành cao. Dùng để bôi ngoài da.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Trong bài có vị Phụ tử là một loại thuốc cực độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính.
Phụ tử phản với các vị Bối mẫu, Bạch cập, Liễm, Bán hạ và Qua lâu khi dùng chung sẽ phát sinh phản ứng nguy hiểm, không dùng chung.
Phụ tử là vị thuốc rất nóng có thai không dùng.
Trong bài có Ba đậu rất độc không dùng quá liều. Nếu bị ngộ độc, dùng Ðậu đen, Ðậu xanh, Ðậu đũa hoặc Hoàng liên nấu nước uống để giải độc. Người có thai kỵ dùng.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Xích thược phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Huyền sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Ngưu tất có tính hoạt huyết tương đối mạnh và đi xuống, là vị thuốc kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
Bạch liễm phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng cần chú ý.
Vị thuốc Ba đậu kỵ Thạch hộc không nên dùng chung.
Ba đậu kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Vị thuốc Đào nhân hoạt huyết kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Vị thuốc Ngô công kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Vị thuốc Thuyền thoái làm cho dễ đẻ phụ nữ có thai không nên dùng.
Vị thuốc Tạo giác cũng như Tạo giác thích có tính thông khiếu mạnh nên kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Vị thuốc Khiên ngưu kỵ thai, người có thai không nên dùng.
Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ
Lưu ý: Ở nước ta có một số loài quế khác, có ở nhiều nơi, cũng được dùng thay thế 3 loài Quế thanh, Quế bì và Quế quan, hoặc trà trộn lẫn khi bán để kiếm lời.
- Quế Bắc bộ: Cinnamomum tonkinensis (Lecomte) A. Chev có từ Ninh Bình đến Quảng Nam Đà Nẵng.
- Quế Bon: Cinnamomum bonii Lecomte. Có từ Lào Cai, Hòa Bình đến Miền Nam.
- Quế Hoa trắng: Cinnamomum tamala (Buch - Ham) Nees et Eberm. Có ở Phú Thọ, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên.
- Quế hương: Cinnamomum bejolghota (Buch - Ham) Sweet. Có ở Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.
- Quế lá hẹp: Cinnamomum burmannii (Nees - et J.Nees) Blume var angustifolium, có ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam.
- Quế rành: Cinnamomum burmannii (Nees et J.Nees) Blume. Có từ Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên. Khi sử dụng cần phân biệt nguồn gốc.














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét