MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - TRIANTHEMA PORTULACASTUM L. (RAU SAM BIỂN)
RAU SAM BIỂN 海马齿苋 Hǎimǎ chǐ xiàn
Tên khoa học: Trianthema portulacastum L., họ Sam biển (Aizoaceae).
Tên khác: Dầu dầu - Sam giả - Tam khôi - Tan lang - Sa sâm nam - Hải cúc trườn - Sa sâm - Desert horsepurslane (Anh) - Pourpier courant (Pháp) - Jia hai ma chi (Trung Quốc).
Bộ phận dùng: Toàn cây (Herba trianthema portulacastri).
Mô tả: Cây thảo, lâu năm, mọc bò lan dài tới 60cm, thân gần tròn hoặc hơi có cạnh, phân cành nhiều, có lông lúc non, già trở nên nhẵn. Rễ trụ, ăn sâu vào đất. Lá đơn mọc đối, đặc biệt có một lá to mọc đối với một lá nhỏ, phiến lá hình trứng hoặc hình trứng ngược dài 1-5cm, rộng 0,5-4,5cm dày mập, gốc thon dài 0,5-3cm, lá kèm nhỏ. Bông đơn độc ra ở nách lá, không cuống, chỉ nở vào buổi sáng, có 2 lá bắc nhỏ, gốc các thùy dính thành ống trông như cuống bông, không có tràng bông, nhị 10-15 không đều, bàu thượng vòi nhụy 2mm không tồn tại. Trái nang đầu bằng có nắp chứa 2-8 hạt hình thận màu đen vỏ sần sùi. Ra bông tháng 3-5, trái tháng 6-8. Cây mọc hoang ở các vùng nhiệt đới toàn cầu, thường ở nơi dãi nắng gần biển, ở nước ta cây mọc phổ biến ở các cồn cát, cửa sông, dọc vùng biển.
Thu hái chế biến: Toàn cây rửa sạch đất cát, loại bỏ lá già, phơi khô hoặc sấy.
Thành phần hóa học:
Rau sam biển có alkaloid trianthemin, punaruavin và steroid ecdysteron, ngoài ra còn có flavonoid C-methyl-flavone. Hạt chứa 12,5% chất béo. Lá có carotene và nhiều nguyên tố vi lượng.
Công dụng: Là một cây giàu dinh dưỡng, có nhiều nguyên tố vi lượng Fe, Ca và đặc biệt là phosphor (P) nên đã được dùng làm rau ăn ở nhiều dân tộc, ở ta dùng lá non và lá bánh tẻ nấu canh ăn giải nhiệt mùa hè, có tác dụng nhuận gan, giúp tiêu hóa, lợi tiểu. Lá già không nên dùng vì có thể gây tiêu chảy. Rễ có vị đắng có tác dụng điều hòa kinh nguyệt, chữa táo bón, với liều nhỏ có tác dụng gây co bóp tử cung giúp cho sản phụ sinh dễ dàng. Liều cao gây sảy thai.
Ở Ấn Độ lá trị phù thũng trong trường hợp xơ gan cổ trướng, vàng da, viêm màng bụng, viêm thận. Còn dùng làm thuốc trị sỏi thận, lợi tiểu. Ở Philippin, rễ được dùng làm thuốc điều hòa kinh nguyệt, bột rễ phối hợp với gừng làm thuốc tiêu hóa, chữa táo bón, chữa bệnh vàng da, tiểu són, phù, hen. Rễ và lá giã nhỏ đắp mắt chữa viêm giác mạc, thị lực kém. Nước sắc rễ được dùng trừ giun và chữa thấp khớp.
Ở Châu Phi nhiều nước còn dùng rễ và lá chứa các bệnh da liễu, các bệnh về gan: viêm gan, viêm lá lách.
Liều dùng:
- Lá búp, lá non dùng nấu canh số lượng 100g.
- Lá và rễ phơi khô 10-30g sắc uống hàng ngày.
Ghi chú: Không dùng lá già vì đã xảy ra tiêu chảy, cần nghiên cứu thêm.





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét