MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - EVODIA RUTAECARPA (JUSS) BENTH. (TETRADIUM RUTAECARPU. (A.JUSS) HARTLEY) (NGÔ THÙ DU)
NGÔ THÙ DU 吴茱萸 Wú zhū yú
Tên khoa học: Evodia rutaecarpa (Juss.) Benth. Tetradium rutaecarrpum (A.Juss) Hartley), họ Cam (Rutaceae).
Tên khác: Thù du 茱萸 Zhū yú - Ngô vu - Ngô thù - Medicinal Evodia Fruit (Anh).
Bộ phận dùng: Trái chưa chín của cây Ngô thù du (Fructus Evodiae immaturus) phơi hay sấy khô. Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1997).
Mô tả: Cây Ngô thù du là một cây nhỏ, cao 2,5-5m. Cành màu nâu hay tím nâu, cành non có nhiều lông mềm, cành già thì lông rụng, trên mặt cành có nhiều bì khổng. Lá mọc đối, lá kép lông chim lẻ, có 5-9 lá chét, cả cuống và lá dài độ 20-40cm. Lá chét cũng mọc đối (trừ chiếc lẻ ở đầu) cuống ngắn 2-5mm, phiến hình bầu dục hay hình trứng, dài 6-15cm, rộng 3-5cm, đầu lá chét nhọn dài, mép nguyên, hai mặt đều có lông màu nâu mịn, mặt dưới nhiều lông hơn, soi lên ánh sáng sẽ thấy hai điểm tinh dầu. Hoa đơn tính màu vàng trắng, khác gốc, hoa cái lớn hơn hoa đực, đa số những hoa nhỏ tụ thành tán hay đặc biệt thành chùm. Cuống hoa to thô, có nhiều lông màu nâu mềm. Mùa hoa tháng 6-8.
Trái hình cầu dẹt, gần như có 5 cạnh, đường kính 2,5-5mm, cao độ 3,5mm. Khi chưa chín có màu xanh, khi trái chín thì mặt ngoài màu lục vàng tối hay màu đen lục, xù xì, có những vân nhăn nhỏ và những điểm tinh dầu. Đỉnh phẳng, giữa có chỗ lõm và 5 đường nối nhỏ, có khi không rõ, đáy có đài hoa và cuống trái. Cuống trái dài độ 5mm, đường kính độ 1,5mm, màu lục xám hay màu lục vàng, có nhiều lông nhung. Trái cứng, khó nát vụn, chẻ ra thấy ở trong có màu đen, phần nhiều đặc, đôi khi có nứt lỗ, soi kính lúp phóng to thấy rõ ở mép có những chấm nhỏ màu đen chứa tinh dầu. Mùa trái tháng 9-10.
Năm 1963, cửa hàng dược phẩm Phó Bảng (Hà Giang) đã phát hiện thấy cây Ngô thù du có tên là cây Xà lạp hay Ngô thù, nhân dân dùng để trị nóng sốt, hay đau bụng.
Thu hái chế biến: Vào khoảng tháng 9-11, khi trái có màu xanh nhuốm vàng mà chưa chín, tâm bì chưa tách ra, thì hái về rải đều, phơi khô, hoặc nếu gặp thời tiết xấu thì có thể sấy khô bằng lửa rất nhẹ, xoa lăn qua rồi sàng sẩy, loại bỏ cành và tạp chất.
Ngô thù du mùi thơm, xông mạnh, vị tê cay, hơi đắng.
Loại Ngô thù du trái nhỏ, mập, chắc, màu lục, mùi thơm xông mạnh, không có cành lá là tốt. Loại Ngô thù du trái to, màu đen, mùi thơm ít, nhẹ là kém. Loại Ngô thù du đã nứt nẻ như hoa tiêu (Zanthoxylum bungeanum Max, họ Cam. Rutaceae) không còn mùi, nếm không tê lưỡi thì không dùng làm thuốc.
Trên thị trường có nhiều loại Ngô thù du sắp xếp theo thứ tự hơn kém như sau:
1. Thường Ngô du 常吴萸 Cháng wú yú (Ngô du Thường Đức): Trái tốt đều, màu lục tro, thơm mạnh là tốt nhất.
2. Xuyên Ngô du 川吴萸 Chuān wú yú (Ngô du Tứ Xuyên): Trái xấu tốt, to nhỏ không đều, nhiều tinh dầu, thơm mạnh, màu hơi lục đen.
3. Đỗ Ngô du 杜吴萸 Dù wú yú(Ngô du Triết Giang): Trái nhỏ bé, màu lục tối, mùi thơm kém Thường Ngô du.
4. Quảng Ngô du 广吴萸 Guǎng wú yú(Ngô du Quảng Tây): Màu đen xám, trái tương đối to, mùi thơm kém.
5. Thiểm Tây Ngô du 陕西 吴萸 Shǎnxī wú yú: Trái to xốp mềm, mùi thơm kém, có lẫn nhiều tạp chất, cành.
6. Hán Ngô du 汉吴萸 Hàn wú yú (Ngô du Hán Khẩu): Trái to xốp, màu nâu xám, có nhiều trái bị nứt, lẫn tạp chất cành.
7. Giang Tây Ngô du 江西吴萸 Jiāngxī wú yú: Trái nứt gần hết.
Ở nước ta là một số địa phương dùng trái cây Đinh trống (còn gọi là Muồng truổng). Tên khoa học: Zanthoxylum avicennae (Lam.) DC. thay Ngô thù du. Cây này có nhiều gai mọc từ dưới gốc mọc hoang ở Hòa Bình, Thừa Thiên, v.v..
Thành phần hóa học: Trong trái Ngô thù du, có trên 0,4p.100 tinh dầu, trong đó thành phần chủ yếu là evoden, C10H16, evodin C17H20O6, ngoài ra còn có evodiamin C19H17N3O, rutaecarpin C16H13N3O.
Theo Ibraghimov, còn có evoxen C20H16 wuchuyin C16H13OzN, chất rutaecarpin phân giải sẽ cho rutamin có cấu tạo hóa học là indolethylanim có nhân indoxyl.
Evodiamin phản ứng với acid sulfuric đậm đặc thành màu vàng da cam, chuyển dần sang màu xám, cuối cùng thành màu lam. Còn rutaecarpin phản ứng với acid sulfuric đậm đặc thành màu vàng.
Công dụng: Theo Đông y, Ngô thù du vị cay, đắng, tính rất nóng, hơi có độc, vào 4 kinh Can, Thận, Tỳ, Vị.
Có tác dụng tán hàn, ôn trung (làm tan lạnh, làm ấm dạ dày, giúp sự tiêu hóa, táo thấp (lợi tiểu, tiêu hóa nước ứ đọng), hạ khó, khai uất (đưa hơi đi xuống, thông những nơi bị tắc đọng).
Theo một số tác giả, Ngô thù du có tác dụng chống nôn, co bóp tử cung, làm tăng huyết áp và ức chế sự sinh trưởng của một số vi khuẩn gây bệnh ngoài da.
Dùng chữa các chứng bệnh: nôn mửa, nhức đầu, chân tay lạnh, đau bụng, tức ngực, lạnh bụng tiêu chảy, mình mẩy tê đau, cước khí phù thũng.
Nước sắc Ngô thù du dùng ngậm rồi nhổ đi để chữa nhức răng, mụn mọc ở lưỡi và miệng hoặc dùng để rửa hạ bộ chảy nước ngứa ngáy (sán thống).
Liều dùng: 1,5-6g thuốc bột hay sắc uống (ngắt bỏ cuống) có khi dùng dưới dạng Chích Ngô thù du: Lấy 325g Cam thảo, sắc lấy nước, lọc bỏ bã. Cho 5kg Ngô thù du vào, đun cho nước Cam thảo ngấm hết thì sao Ngô thù du cho đến khô.
Lưu ý: Người âm hư có nhiệt mà không hàn thấp không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa các chứng bệnh: bụng sườn đau nhức, nôn mửa ra nước chua, tiêu chảy:
Hoàng liên 180g
Ngô thù du 30g
Tán thành bột mịn, trộn thật đều. Lấy nước đun sôi để nguội nhào bột, làm thành viên nhỏ, phơi khô hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp.
Mỗi lần uống 4-3g. Mỗi ngày uống 1-3 lần, chiêu với nước đun sôi còn ấm.
Bài số 2: Chữa nôn mửa, không đại tiện:
Ngô thù du 5g
Can khương (Ngô thù du) 2g
Sắc uống.
Bảo quản: Để nơi khô mát, khô ráo, nút kín.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét