MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - COLEUS AMBOINICUS LOUR. (RAU TẦN)
RAU TẦN (Lá)
Tên khoa học: Coleus amboinicus Lour. ( = Coleus aromaticus Benth = Plectranthus amboinicus (Lour.) Spreng) - họ Hoa môi (Lamiaceae).
Tên khác: Rau thơm lông - Rau thơm lùn (Miền Nam Vietnam) - Rau tần dày lá - Rau tần - Rau tần lá dày (Miền Trung Vietnam) - Húng chanh (Miền Bắc Vietnam) - Dương tử ô (TQ) - Plectranthus amboinicus (Anh) - Coleus (Pháp).
Bộ phận dùng: Lá tươi hoặc đã chế biến khô của cây Rau tần dày lá (Folium Colei). Đã được ghi vào DĐVN (1983).
Mô tả: Cây rau tần thuộc loại thảo, có thể sống lâu năm, phần thân phần gốc hóa gỗ, cao 20-70cm. Lá mọc đối, có cuống, phiến lá dày, mọng nước, bẻ giòn, hình trứng đầu nhọn, mép khía răng thưa, dài 6-10cm, rộng 3-6cm, mặt trên có lông đơn, mặt dưới có nhiều lông bài tiết, các gân lá nổi rất rõ. Hoa nhỏ, màu tía, mọc thành bông ở đầu cành và ngọn cây. Trái nhỏ, hình cầu, màu nâu trong có 4 hạt.
Toàn cây có lông, có mùi thơm, gần giống mùi chanh lại phảng phất mùi tinh dầu giun (Rau muối dại, Kinh giới đất, Thổ kinh giới - Chenopodium ambrosioides).
Cây Rau tần nguồn gốc đảo Moluques, được trồng ở nước ta làm rau ăn và làm thuốc. Trồng rất dễ bằng những đoạn thân, cắm cuống đất ẩm, xốp, sau độ 2 tháng có thể hái lá.
Mùa hoa trái: tháng 4-6.
Thành phần hóa học: Sơ bộ thấy trong lá rau tần có một chất màu đỏ gọi là colein, một số vitamin, một số chất khoáng vi lượng, flavon, tanin.
Ngoài ra còn có tinh dầu có mùi thơm riêng biệt, trong tinh dầu đó khoảng 65p.100 là các hợp chất phenol (chủ yếu là carvacrol, thymol, thêm eugenol, chavicol...)
Theo Hoàng Quang Đức (Dược học 5./1979): 1 kg lá Rau tần tươi được 0,24ml tinh dầu, 50g lá Rau tần khô được 0,14ml tinh dầu (1kg lá Rau tần tươi phơi khô trong tâm chỉ còn 50g lá khô).
Công dụng: Phòng Đông y (Viện Vi trùng Hà Nội), năm 1961, đã nghiên cứu thấy tinh dầu Rau tần có tác dụng kháng sinh mạnh đối với các vi khuẩn Gram dương và Gram âm, có thể kể như: Staphylococcus, Streptocopccus, Pneumococcus, Salmonella typhi, Shigella flexneri, Shigella sonneu, Shigella dysenterica, Coli pathogene, Bordet Gengou... Rau tần qua xử lý đến dạng cao khô (8g cao khô húng chanh có 0,004 tinh dầu) có sử dụng nhiệt vẫn còn có tác dụng kháng sinh.
Theo Đông y, rau tần vị cay, hơi chua, tính ấm gần như không độc, vào 2 kinh: Phế, Can.
Có tác dụng: nhuận phổi, trừ đờm, phát hàn, giải cảm, hạ sốt, tiêu độc.
Chữa các chứng bệnh cảm cúm, ho hen, có đờm, sốt cao, không ra mồ hôi được, viêm họng hoặc viêm nhiễm đường tiết niệu, tiêu hóa kém.
Liều dùng: 10-15g lá tươi - Rửa kỹ, sạch, ăn tươi, hoặc giã, xay (máy sinh tố), ép lấy nước uống (đun nóng sẽ giảm tác dụng). Cũng có thể chế thành syrup cho trẻ em uống.
Dùng ngoài da: Giã đắp chữa các vết thương do côn trùng cắn, muỗi đốt v.v...
Có thể dùng làm thuốc xông, thuốc súc miệng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét