MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - PRUNELLA VULGARIS L. (HẠ KHÔ THẢO)
HẠ KHÔ THẢO (SPICA PRUNELLAE) 夏枯草 Xià kūcǎo
Tên khoa học: Prunella vulgaris L. (họ Brunella vulgaris L.), họ Hoa môi (Lamiaceae).
Tên khác: Common Selfheal Fruit - Spike.








Bộ phận dùng: Cả cành có lá và hoa tự của cây Hạ khô thảo (Herba Prrunellae) phơi khô. Đã được ghi vào DĐVN (1997) và DĐTQ (1963), (1997).
Lấy riêng bông của cây Hạ khô thảo (Spica Prunellae) phơi khô, ta vẫn gọi nhầm à "toàn hoa" (Một số tài liệu ghi là Flos Prunellae cum Fructus).
Mô tả: Hạ khô thảo là một cây cỏ, sống lâu năm, cao độ 30-40cm, thân vuông, có lông nhung. Lá mọc đối chéo chữ thập, hình trứng dài, đầu nhọn, dài độ 2-5cm, rộng độ 1-1,5cm. Hoa tự hình bông, mọc ở ngọn, màu hơi tím. Cuối mùa hè thì cây khô lại. Mọc hoang nhiều ở Tam Đảo, Hà Giang, Lào Cai.
Thu hái chế biến: Vào mùa hè (tháng 5-6) ngắt những cành có lá và hoa, lấy chiều dài từ 15cm từ ngọn trở xuống, phơi khô.
Thủy phần dưới 12p100.
Tỉ lệ vụn nát (qua rây số 36) dưới 10p100.
Nếu lấy bông trái (tuệ), thì khi bông trái bắt đầu khô một nửa, ngắt riêng bông kèm đoạn cuống độ 1cm, rồi đem phơi khô (ta vẫn quen gọi là "toàn hoa").
Hạ khô thảo mùi hơi thơm, vị nhạt.
a. Loại Hạ khô thảo cả cành, màu nâu, có lá và còn nguyên hoa tự, không vụn nát, không mốc, không lẫn tạp chất là tốt.
b. Loại Hạ khô thảo bông trái khô, nguyên vẹn mùi thơm, không mốc, không lẫn lá cành và tạp chất là tốt.
Loại 1: toàn hoa cuống ngắn dưới 1cm.
Loại 2: cành có nhiều lá, đầu có hoa tự, chiều dài dưới 15cm kể từ hoa xuống.
Tránh nhầm lẫn với cây Cải trời hay Cải ma (Blumea subcapitata DC. họ Cúc) cây cao, hoa nhỏ, kiểu hoa cúc, có nơi gọi là Hạ khô thảo nam, hay Hạ khô thảo Nghệ An.
Thành phần hóa học: Cả cây Hạ khô thảo chứa độ 3,5p100 muối vô cơ tan trong nước (trong đó Kali chlorid chiếm 68p100) và một chất có tính chất alkaloid, còn hoạt chất khác chưa rõ.
Có tài liệu ghi cả cây chứa một chất glucosid gọi là Prunellin, thủy phân thành acid ursolic C30H48O3 và đường, ngoài ra còn có vitamin B1, tanin, tinh dầu. Trái chứa chất béo và men.
Khi cây ra hoa thì có acid ursolic.
Công dụng: Theo Đông y, Hạ khô thảo vị đắng, cay, tính lạnh, vào 2 kinh Can, Đởm. Có tác dụng thanh can hỏa (trừ nóng trong gan) làm tán uất kết, lợi tiểu, hạ huyết áp. Nước sắc đặc 100p100 hạ khô thảo có tác dụng kháng sinh mạnh.
Dùng chữa các chứng bệnh tràng nhạc, lao, bệnh nhiễm bụi silic, viêm amidal, mã đao, vú sưng tấy, mụn nhọt, đau mắt đỏ, chảy nhiều nước mắt, phụ nữ khí hư, bí đái, tăng huyết áp.
Liều dùng: 5-10g sắc uống.
Nhân dân ta thường uống hay chè để giải khát cho mát. Có khi nấu lẫn với 7 vị khác là lá tre, rễ cỏ tranh, hoa hoặc cành lá kim ngân, rễ ngưu tất, thục địa, cam thảo bắc, ý dĩ và mía gọi là Bát bảo lương trà.
Lưu ý: Người yếu dạ, lạnh bụng dùng uống phải cẩn thận.
Theo tài liệu lâm sàng thường dụng Trung dược thì Hạ khô thảo uống quá lâu hại thận.
Bài thuốc: Chữa chứng yếu gan, sinh đau nhức mắt (can hư) nặng về đêm (chữa cả bí đái, phù thũng):
Hạ khô thảo hoa 8g
Chích cam thảo 6g
Hương phụ 6g
Sắc uống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét