MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - SOPHORA JAPONICA L. (HOÈ)
HÒE 槐 Huái
Tên khoa học: Sophora japonica L., họ Cánh bướm (Papilionaceae).
Tên khác: Pagoda tree flower (Anh).
Bộ phận dùng:
1. Nụ hoa hòe chưa nở (Flos Sophorae immaturus), gọi là Hòe mễ 槐米 huái mǐ (TQ).
2. Nụ hoa hòe sắp nở (Flos Sophorae), gọi là Hòe hoa (TQ).
3. Trái hòe (Fructus Sophorae), gọi là Hòe giác (TQ).
Hiện nay ta thu mua Hòe mễ có lẫn ít Hòe hoa gọi chung là Hoa hòe (Flos sophorae). Hòe hoa đã được ghi vào DĐVN (1997), (1983). DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cây hòe là một cây nhỡ, cao độ 6-10m, quanh năm xanh tươi, sống lâu năm có thể tới hàng trăm năm. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, mỗi lá có 7-17 lá chét. Sau độ 3 năm thì có hoa. Hoa nhỏ, mọc thành chùm ở đầu cành, hoa hình cánh bướm, màu vàng sáng. Mùa hoa tháng 8-9. Hòe nếp nhiều hoa. Hòe tẻ ít hoa hơn. Trái loại đậu thành từng chuỗi thắt ở giữa các hạt, chứa 1-4 hạt.
Cây hòe được trồng nhiều ở các tỉnh Thái Bình, Bắc Giang, Nam Hà, Thanh Hòa, Nghệ An. Trồng bằng hạt già, ươm rồi bứng, cũng có thể chiết cành hay lấy mầm chồi mọc từ rễ mà đem trồng.
Thu hái chế biến:
1. Hoè hoa: thu hái về mùa hè, khi hoa chưa nở, bẻ những chùm hoa, tuốt lấy nụ hoa (loại riêng những hoa đã nở sớm) rồi phơi nắng thật nhanh cho khô hoặc sấy nhẹ lửa.
Cũng có thể sao qua bằng lửa nhẹ trong chảo trước khi đem phơi nhưng chú ý đảo luôn và nhẹ tay tránh làm cháy và vụn nát.
Hòe hoa mùi nhẹ, vị hơi đắng. Loại hòe hoa toàn nụ khô, màu vàng lục, to, chắc, không mốc mọt, không nát vụn, không lẫn hoa đã nở và tạp chất, cuống lá v.v... là tốt. Hòe hoa phải là toàn nụ và hoa hòe sắp nở, tỉ lệ hoa đã nở không quá 10p.100.
Thủy phần an toàn dưới 12%.
2. Hòe giác: Thu hái khoảng tháng 10-12 khi trái già thì hái, tuốt bỏ cành, cuống và loại tạp chất rồi đem phơi khô.
Hòe giác ít mùi, vị đắng, nhai hạt hơi tanh hăng như đậu.
Loại hòe giác hạt to, mập, già, khô, không lẫn tạp chất là tốt.
Thành phần hóa học: Hòe hoa chứa chất rutin C27H30O16 (tỷ lệ độ 10-28p. 100. Thủy phân sẽ cho quercetin, glucose và rhammose Rutin còn gọi là vitamin P.
Hòe giác cũng chứa rutin, tỷ lệ thấp hơn hòe hoa. Dược điển Việt Nam quy định tỷ lệ Rutin trong hoa hòe ít nhất phải là không dưới 20p100 (TCVN6501-70) đem sao nhẹ (không làm cháy) không ảnh hưởng đến tỉ lệ Rutin, trái lại làm tăng tỷ lệ lên do khối lượng dược liệu nhẹ đi. Kiểm nghiệm một mẫu hòe hoa đã sao nhẹ của Thái Thụy (Thái Bình) tỷ lệ Rutin đạt 42,89p100).
Công dụng:
1. Hòe hoa theo Đông y, vị đắng tính bình vào 2 kinh: Can, Đại trường.
Có tác dụng làm máu thanh nhiệt, cầm máu.
Dùng chữa các chứng bệnh, nôn ra máu, chảy máu cam, lỵ ra máu mũi, trĩ, ra máu, phụ nữ băng huyết, đau mắt đỏ. Còn dùng trong trường hợp huyết áp tăng, đề phòng đứt mạch máu não, xuất huyết cấp tính do viêm thận, xuất huyết ở phổi.
Liều dùng: 4,5-9g, hãm, sắc uống.
2. Hòe giác theo Đông y vị đắng, tính hơi lạnh, vào kinh Can.
Có tác dụng trừ phong nhiệt, mát đại trường, nhuận gan. Hòe giác thiên về giáng hạ (đưa xuống) giúp đẻ dễ, có thể gây trụy thai. Dùng chữa các chứng bệnh viêm ruột ra máu (trường phong), trĩ loét ra máu, tim hồi hộp, chóng mặt muốn ngã đau, mắt đỏ, đẻ khó.
Liều dùng: 6-12g. Sắc uống.
Theo một số tác giả Rutin trong hòe hoa, hòe giác làm tăng cường sức chịu đựng của các mao mạch, làm hạ huyết áp ngoại vi.
Lưu ý: Người thuộc chứng hư hàn, ỉa chảy, phụ nữ có thai không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa viêm ruột ỉa ra máu (trường phong).
Hòe hoa 6g
Trắc bách diệp 4g
Kinh giới 4g
Chỉ xác 4g
Tán nhỏ, uống với nước cháo, chia làm 3 lần.
Bài số 2: Chữa chảy máu cam (mũi) đại tiểu tiện ra máu, trĩ, lỵ ra máu, phụ nữ băng huyết:
Hòe hoa 9g
Nhọ nồi (bách thảo sương) 3g
Tán bột, uống với nước sắc rễ cỏ tranh.
Bài số 3: Chữa tăng huyết áp, đề phòng đứt mạch máu não, xuất huyết cấp tính viêm thận, xuất huyết ở phổi:
Hòe hoa 30g
Hy thiêm 30g
Sắc uống.
Biệt dược (phối hợp): Esberiven - Sulfo - rutin - Troxerutin - Vicalin - Vincarutin - Vitarutin.
Esberiven
Sulfo - rutin
Troxerutin
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét