Bộ phận dùng: Rễ củ của cây Hà thủ ô (Radix Polygoni multiflori) phơi khô.
Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963), (1997).
Mô tả: Cây Hà thủ ô là một loài dây leo, sống lâu năm, thân mọc xoắn vào nhau. Thân nhẵn màu lục hay hơi đỏ tía, có những vân hoặc bì khổng. Lá đơn, mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình tim dài, đầu nhọn, dài độ 7cm, rộng độ 4cm, mép nguyên, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới màu nhạt, có khi phớt hồng tía, cả hai mặt đều nhẵn và không có lông. Hoa trắng nhỏ li ti, mọc thành chùm ở kẽ lá hay đầu cành. Mùa hoa tháng 9-10. Trái nhỏ có 2 mặt hình thoi, màu nâu, dài độ 1mm. Mùa trái tháng 11-1.
Cây Hà thủ ô mọc hoang nhiều ở Sơn La, Lai Châu, Lao Cai, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Giang, Nghĩa Lộ. Có thể trồng bằng dây hoặc bằng hạt, sau 4-5 năm trở lên thì được thu hoạch.
Thu hái chế biến: Rễ củ: có thể thu hoạch quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa thu đông. Khi cây khô héo, đào lấy rễ củ, rửa sạch đất cát, loại bỏ rễ con; củ nhỏ đường kính 4-8cm thì để nguyên, củ to đường kính trên 8cm thì bỏ dọc đôi hay bổ tư, xong đem phơi hoặc sấy nhẹ lửa cho khô (có thể đem đồ chín rồi phơi khô thì tốt hơn).
Rễ củ Hà thủ ô không mùi, vị hơi đắng, chát. Loại Hà thủ ô củ khô, chắc, da màu nâu xám, nhiều bột, ít xơ, thịt màu đỏ hồng hay nâu, không bị cháy, không mốc mọt là tốt.
Có 2 loại:
a. Loại xuất khẩu: để nguyên củ, củ to đường kính 4-8cm, có lõi nhỏ, đường kính lõi dưới 1cm.
b. Loại nội địa: đường kính củ trên 1,5cm, có thể chẻ đôi hay để nguyên.
Thủy phần an toàn dưới 13p100.
Cần phân biệt tránh nhàm lẫn với:
Rễ củ của dây sữa bò (còn gọi là hà thủ ô trắng) Streptocaulon juventas Merr., họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Thân củ của cây bình bôi (còn gọi là củ Đỉnh, trước dây gọi là hà thủ ô): Stephania rotunda Lour. hay Stephiania glabra (Roxb.) Miers, họ Tiết dê (Menispermaceae).
Thân - rễ của cây nâu: Dioscorea cirrhosa Lour. họ Củ mài (Dioscoreaceae) thường hay trộn lẫn với hà thủ ô đỏ; củ nâu không có lõi.
Thành phần hóa học: Rễ củ hà thủ ô chứa antraglucosid (1,7p100) trong đó chủ yếu là chrysophanol, emodin và rhein. Ngoài ra còn có chất đạm (1,1p100), tinh bột (45,2p100), chất béo (3,1p10), chất vô cơ (4.5p100), các chất tan trong nước (24,4p100) và lecitin.
Công dụng: Theo Đông y, hà thủ ô vị đắng, ngọt, chát, tính ấm, sáp (làm săn), vào 2 kinh Can, Thận.
Có tác dụng bổ gan, thận, thu liễm tinh khí, làm mạch gân cốt, nuôi dưỡng khí huyết, làm đen râu, tóc.
Dùng chữa các chứng bệnh yếu gan, viêm gan mạn tính, yếu thận lưng gối đau nhức, âm hư, sốt rét lâu ngày, thiếu máu, thần kinh suy nhược, di tinh, bạch đới khí hư, râu tóc sớm bạc.
Theo Tây y, hà thủ ô có tác dụng giảm cholestérol huyết, nhuận tràng, bổ tim, bổ thần kinh, bổ toàn cơ thể. Chữa các chứng bệnh: tăng cholesterol huyết, mất ngủ, hồi hộp, đánh trống ngực, hạch tăng sinh (lymphadenite).
Liều dùng: 10-12g, dùng sống hoặc đồ với đậu đen gọi là Hà thủ ô chế, sắc uống. Cách chế: lấy 50kg hà thủ ô thái thành phiến, trộn đều với 12,5kg nước đậu đen (1) và 12,5kg rượu nếp, (hoặc rượu trắng) đem đun cách thủy cho tới khi hút hết nước, lấy ra phơi khô.
Lưu ý: Người bị ngoại cảm phong hàn (cảm lạnh) không được dùng. Hà thủ ô kỵ sắt (sẽ bị đen).
Muốn bổ máu thì dùng hà thủ ô chế. Muốn nhuận tràng thì dùng sống. Người tỳ hư (tiêu hóa kém) ỉa chảy không uống.
Dùng Hà thủ ô phải kiêng ăn tiết canh, thịt tái, cá không vẩy, củ cải, hành tỏi (Theo Đông y).
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa chứng yếu sức, thiếu máu, yếu thận, không có con, di tinh, phụ nữ khí hư:
Hà thủ ô đỏ 10g
Ngưu tất 6g
Câu kỷ tử 6g
Phá cố chỉ 4g
Bạch phục linh 4g
Đương quy 6g
Thỏ ty tử 4g
Luyện với mật ong làm thành viên, mỗi viên 0,5g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên, sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng và tối dùng nước muối.
Bài số 2: Rượu hội chữa rắn cắn:
Hà thủ ô đỏ 40g
Thanh phàn 24g
Xuyên bối mẫu 24g
Nam tinh 24g
Bạch chỉ 24g
Quế chi 24g
Bào sơn giáp 24g
Hùng hoàng 40g
Ngũ linh chi 20g
Bạch thược 12g
Bạch đậu khấu 24g
Tán nhỏ, ngâm với 1,5 lít rượu 35-40 độ trong 10 ngày, lấy ra cho uống 100ml - 200ml 1 ngày (chia làm nhiều lần).
Bài số 3: Bổ máu an thần chữa thiếu máu, mất ngủ, lo âu, máu khô, râu tóc bị bạc sớm:
Hà thủ ô chế 9g
Bắc sa sâm 9g
Quy bản 9g
Mẫu lệ 9g
Bạch thược 9g
Sắc uống.
Bài số 4: Dưỡng can, chữa thiếu máu, váng đầu hoa mắt, chân tay tê dại, tăng huyết áp:
Hà thủ ô chế 9g
Sinh địa 9g
Bạch thược 9g
Nhọ nồi 9g
Hoài ngưu tất 9g
Huyền sâm 9g
Hy thiêm 9g
Tầm gửi dâu 9g
Sắc uống.
Bài số 5: Hà thủ ô đỏ sắc uống độc vị hàng ngày chữa nam giới tinh trùng yếu, tinh dịch loãng.
Bài số 6: Hà thủ ô đỏ kết hợp với tầm gửi dâu (tang ký sinh), chữa tăng huyết áp, do mạch máu xơ cứng ở người cao tuổi.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, thoáng gió, đề phòng sâu mọt.
Biệt dược (phối hợp): Tăng áp mạch xơ hoàn - Thất bảo mỹ nhiệm đơn - Thủ ô bổ dưỡng thang - Rượu rắn - Vạn ứng cao.
Biện chứng đông y:
Ứ huyết nội trệ.
Phương pháp điều trị:
Hoạt huyết hóa ứ nhuyễn kiên tán kết.
Bài thuốc:
Nhuyễn kiên súc tì thang.
Công thức:
Đương qui 15g
Xuyên khung 9g
Tam lăng (sao) 9g
Nga truật 9g
Đào nhân (sao) 9g
Thổ nguyên 9g
Đan sâm 30g
Sài hồ 12g
Trần bì 12g
Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Hiệu quả điều trị :
Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ năm 1973 phát hiện thấy gan lách bị sưng to, chức năng gan khác thường. năm 1975 chẩn đoán là viêm gan mạn tính. Từ năm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi khám ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, cường lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không đồng ý. Ngày 23-2-1979 đến viện điều trị. Khi vào viện, hai bên sườn bệnh nhân đau nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ăn uống được. Kiểm tra thấy: sức khoẻ nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sườn 1,5 cm, lách to dưới bờ sườn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm huyết ứ, rêu mỏng, rài lưỡi ám đen, mạch tế, sáp. Xét nghiệm thấy: chức năng gan bình thường, bạch cầu 3800/mm3, tiểu cầu 76000/mm3. Kiểm tra siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ sườn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian sườn thứ 6 (7cm), dưới bờ sườn 2 cm. Uống thuốc barit để chụp phim cho thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn nhẹ.
Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn kiên súc tì thang, mỗi thang sắc tới còn 300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuanà sau kiểm tra chức năng gan, transaminase glutamic tăng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp cải tiến), bèn ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện can sinh hóa thang: Đảng sâm 15g, Bạch truật (sao) 9-12g, Sơn dược (sống) 30g, Đương qui, Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi thứ 12g, Đan sâm 15-30g, Bạch dược (sống) 18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi thứ 6-9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống một thang cùng thuốc tây y bảo vệ gan. Sau nửa tháng, transaminase glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn kiên súc tì thang, uống thêm Súc tì tán (ngũ linh chi 30g, Nga truật, Tam lăng mỗi thứ 60g, Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày uống hai lần sáng tối. Một tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96 ngày, khi ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu mạch huyễn hữu lực, chức năng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu cầu 95.000/mm3. Kiểm tra bằng siêu âm: lách dày 3,5cm. Chụp phim sau khi uống barit thấy hết giãn tĩnh mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị. Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại tăng đến 113.000/mm3. Theo dõi trong 4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.
Bàn luận:
Xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, lách sưng to, cường lách thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng tích và chứng tụ. Chứng tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn thuốc Súc tì thang và Súc tì tán được cấu tạo theo phép này, ứng dụng vào lâm sàng thu được hiệu quả mĩ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng thuốc phải từ ít đến nhiều, tăng dần liều lượng sao cho không tổn thương chính khí (ý nói tình trạng chung và các chỉ tiêu chức năng gan, đôi khi phối hợp uống với Súc tì tán để nâng cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức năng gan và xét nghiệm máu, nước tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh nhên tự cảm thấy chứng bệnh rõ rệt, chức năng gan bị tổn thương nghiêm trọng thì phải giảm liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông y hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc Kiện can sinh hóa thang để chữa, đợi chức năng gan chuyển biến tốt mới tiếp tục công trị cho đến khi khỏi hẳn.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Vị Đan sâm phản lại Lê lô khi dùng nên tránh xa.
Tam lăng kỵ thai, có thai nên tránh xa
Nga truật kỵ thai, có thai không nên dùng
Đào nhân kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Bài thuốc Thất bảo mỹ nhiệm đan
Nguyên bản bài thuốc:
Thiệu ứng tiết
Thất bảo mỹ nhiệm đơn
Thành phần bài thuốc:
Hà thủ ô 300g
Đương qui 300g
Phá cố chỉ 160g
Bạch linh 300g
Ngưu tất 300g
Kỷ tử 300g
Thỏ ty tử 300g
Cách chế:
Hà thủ ô trộn với đậu đen, 9 lần chưng, 9 lần phơi, Bạch linh trộn sữa sao, Ngưu tất tẩm rượu chưng chung với Hà thủ ô từ lần thứ 7 về sau, Phá cố chỉ trộn với Mè đen sao qua, tất cả đều tán nhỏ luyện mật làm hoàn 10g/1 hoàn.
Cách sử dụng:
Mỗi lần uống 2 hoàn trước khi đi ngủ.
Tác dụng:
Bổ thận, tráng dương, ích tinh, bổ khí huyết Theo sách thì đời nhà Minh ở trung quốc niên hiệu gia tĩnh có vị thầy thuốc tên là Thiệu ứng Tiết đem dâng vua bài thuốc này, vua vốn bất lực, sau khi uống thuốc rồi sinh liên tục được 2 hoàng tử cho nên được truyền bá khắp dân gian. Bài thuốc được dùng chữa các chứng vô sinh nam, sinh dục suy yếu, di tinh liệt dương, phụ nữ bang huyết đới hạ. Hiện tại còn dùng cho bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chân tay tê dại. Có người dùng chữa bệnh đái đường có kết quả tốt.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Ngưu tất có tính hoạt huyết tương đối mạnh và đi xuống, là vị thuốc kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Thủ ô bổ dưỡng thang:
1. Thang hà thủ ô, nữ trinh tử:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 25g
Nữ trinh tử 10g
Hạn liên thảo 10g
Cách dùng: Đem sắc lên uống. Ngày 1 thang, chia 2 lần, buổi sớm, buổi tối.
Công dụng: Dùng cho người gan thận âm huyết bất túc sinh ra đầu váng mắt hoa, ù tai mất ngủ, râu tóc sớm bạc.
2. Thang hà thủ ô, linh chi:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 20g
Linh chi 10g
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang, uống 2 lần sớm, tối.
Công dụng: Dùng cho người huyết hư mất ngủ.
3. Thang hà thủ ô huyền sâm:
Thành phần:
Hà thủ ô tươi 20g
Huyền sâm 10g
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang chia hai lần sớm, tối.
Công dụng: Dùng cho người đại tiện táo.
4. Thang hà thủ ô câu đằng:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 30g
Câu đằng 20g
Cách dùng: Sắc uống ngày một thang chia 2 lần sớm, tối.
Công dụng: Dùng cho người già váng đầu, cao huyết áp.
5. Thang thục địa hà thủ ô:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 15g
Thục địa 15g
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Công dụng: Dùng cho người huyết hư, bạc tóc.
6. Thang hà thủ ô sinh địa:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 16g
Sinh địa 30g (rửa bằng rượu)
Cách dùng: Bỏ vào ấm sứ, rót nước sôi ủ chín. Cứ 3 ngày thay thuốc 1 lần, uống liền trong 3 tháng.
Công dụng: Dùng cho người chưa già đã suy yếu, thân thể hư nhược và râu tóc bạc sớm.
7. Thang hà thủ ô thạch xương bồ:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 12g
Hoàng tinh 12g
Thạch xương bồ 6g
Uất kim 6g
Bá tử nhân 12g
Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang chia ba lần.
Công dụng: Dùng cho người bị hẹp van tim, đau tức ngực do huyết hư sinh ra.
8. Thang hà thủ ô, đỗ trọng:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 13g
Đỗ trọng 10g
Câu kỷ tử 13g
Thục địa 10g
Cách dùng: Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.
Công dụng: Dùng cho người đầu váng mắt hoa do can thận tinh huyết bất túc sinh ra.
9. Thang hà thủ ô, ô long trà:
Thành phần:
Hà thủ ô chế 30g
Vỏ bí đao 18g
Ô long trà 3g
Sơn tra 15g
Hoè giác 18g
Cách dùng: Bốn vị hoè giác, hà thủ ô, vỏ bí đao và sơn tra, cho nước vào sắc chung, pha trà ô long vào uống trong ngày.
Công dụng: Dùng phòng trị các bệnh tim mạch, làm chậm quá trình xơ cứng động mạch.
Lưu ý:
Những kiêng kỵ khi dùng thuốc:
-Giữa hà thủ ô tươi và hà thủ ô chế có công dụng khác nhau, khi dùng cần lựa chọn.
- Dùng vị thuốc này không được ăn hành, tỏi, củ cải và tiết (máu) các loài động vật.
- Khi bào chế và sắc thuốc phải tuyệt đối kỵ đồ nấu bằng sắt.
- Người tỳ hư, tiêu chảy không nên dùng.
Rượu rắn
Bài thuốc Vạn Ứng Cao
Nguyên bản bài thuốc
Y Tông Kim Giám, Q.62.
Ngô Khiêm
Chủ trị:
Trị ung nhọt (thư), phát bối, đờm hạch (lao hạch).
Thành phần bài thuốc:
Bạch cập
Bạch chỉ
Bạch liễm
Cam thảo
Đại hoàng
Định phấn
Độc hoạt
Đương quy
Khổ sâm
Khương hoạt
Mộc miết
Nhân sâm
Ô dược
Quan quế
Sinh địa
Thảo ô
Tượng bì
Xích thược
Xuyên ô
Xuyên sơn giáp
Đều 20g. Trừ Định phấn ra. Dùng dầu thơm ngâm thuốc.
· Mùa Xuân 5 ngày
· Mùa Thu 7 ngày
· Mùa hè 3 ngày
· Mùa Đông 10 ngày
Cho vào 1 nồi lớn, nung chín cho thuốc khô, đang lúc thuốc còn nóng, dùng vải mỏng lọc bỏ bã, thêm dầu 500g và Định phấn 250g, nấu thành cao, dùng để bôi ngoài.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Xích thược phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Khổ sâm phản nhau với vị Lê lô, nên bài này không được gia vị Lê lô, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm.
Bạch cập phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Bạch liễm phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử, Ô uế, Thiên hùng, khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Đại Hoàng là thuốc hạ mạnh, kỵ thai, phụ nữ có thai không nên dùng.
Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Xuyên ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng
Xuyên ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Thảo ô là một vị thuốc rất độc (Thuốc độc bảng A), cần phải dùng loại đã được bào bào chế kỹ càng, đúng cách để loại trừ độc tính mới uống được. có thai không dùng
Thảo ô phản lại các vị bối mẫu, Bạch cập, bạch liễm, Bán hạ, Qua lâu - không được dùng chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét