MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - MAGNOLIA OFFICONALIS REHD. ET WILS. (HẬU PHÁC BẮC)
HẬU PHÁC BẮC 北厚朴 Běi Hòu pǔ
Tên khoa học:
1. Magnolia officinalis Rehd. et Wils.
2. Magnolia officinalis var biloba Rehd. et Wils.
Đều thuộc họ Mộc lan (Magnoliaceae).
Tên khác: Hậu phác bắc - Officinal Magnolia Bark (Anh) - Cortex Magnoliae Officinalis (Mỹ) - 厚朴 Hòu pǔ (TQ).
Bộ phận dùng:
1. Vỏ thân và vỏ rễ của 2 cây trên (Cortex Magnolia officinalis) phơi khô.
Đã được ghi vào DĐTQ (1963), (1997).
2. Hoa của 2 cây trên (Flos Magnolia officinalis) phơi khô.
Mô tả:
Cây Hậu phác là một cây to, cao 7-15cm, vỏ thân tím nâu. Lá mọc so le, cuống to mập, dài 2,4-4cm, không có lông, phiến lá hình trứng thuôn dai, 22-40cm, rộng 10-20cm, đầu hơi nhọn, phía cuống hẹp lại. Hoa màu trắng, thơm, to, đường kính có thể tới 12cm. Trái hình trứng dài 9-12cm, đường kính 5-5,6cm.
Cây Hậu phác sau rất giống loài trên, chỉ khác là ở đầu lá lõm xuống chia đầu lá thành 2 thùy. Hai loài cây Hậu phác Hậu phác trên chưa thấy ở nước ta.
Thu hái chế biến:
1. Vỏ Hậu phác: Thu hái vào tháng 4-6. Chọn những cây đã mọc trên 20 năm, bóc lấy vỏ thân và vỏ rễ, phơi trong râm hoặc nhúng qua nước sôi, lấy ra đổ thành đống cho hơi nước ở trong thoát ra rồi phơi khô. Sau đồ hơi nước cho mềm, cuộn lại thành ống, phơi khô trong râm.
Thủy phần dưới 14p100.
Vỏ hậu phác bắc mùi thơm vị cay tê, hơi đắng, hơi ngọt. Loại hậu phác vỏ thô, thịt mịn, nhiều dầu, mùi vị đậm đà, mặt bẻ ngang màu đỏ tía, trông lấp lánh như sao, nhai ít bã là tốt.
Loại hậu phác vỏ thân ở gần rễ tốt hơn vỏ cành. Hậu phác Tứ Xuyên được coi là có giá trị hơn cả.
Loại hậu phác vỏ ít dầu, mùi vị bạc, mặt cắt ngang không có những điểm lấp lánh như sao là kém.
2. Hoa hậu phác: thu hái vào đầu mùa hè. Khi hoa sắp nở thì hái về, đem đồ hơi nước độ 10 phút, lấy ra đem phơi hoặc sấy nhẹ lửa cho khô.
Hoa hậu phác mùi thơm vị hơi cay. Loại hoa hậu phác nguyên vẹn, màu xám đỏ nâu, mùi thơm đậm là tốt.
Hiện nay ta còn dùng vỏ cây Gie, cây Re (Cinnamomum obtusifolum Nees) và vỏ cây Chành chành (Cinamomum liangii Allen, họ Long não - Lauraceae) gọi là Hậu phác Nam: Cây Gie và cây Chành chành mọc hoang nhiều ở vùng Ninh Bình, Bắc Giang, Lạng Sơn. Hậu phác Nam (Cortex Cinnamomi liangii và Cortex Cinnamomi obtusifolium) đã được ghi vào Dược điển Việt Nam (1983).
Hậu phác nam thu hoạch vào tháng 4-6, khi trời nắng ráo, bóc vỏ cây thành từng thanh theo đúng quy cách, cạo sạch vỏ ngoài, rồi đem phơi sấy khô.
Loại hậu phác nam khô, đã cạo sạch lớp vỏ ngoài, thịt màu nâu nhạt, mùi thơm hắc, vị hơi the và chát, không mốc mọt, không mục nát, sạch đất cát là tốt. Hậu phác nam phải lột thành từng thanh, dài độ 25-30cm, rộng 4-6cm.
Thủy phần an toàn dưới 10p100.
Hậu phác nam dùng chữa đau bụng ỉa chảy, trướng đầy.
Dưới tên hậu phác nam, nhiều nơi còn dùng vỏ các cây sau đây:
Cây Vối rừng (Eugenia jambolana Lamk, họ Sim, Myrtaceae).
Cây Ngọc lan ta (Michelia champaca Linn, họ Mộc lan, Magnoliaceae).
Cây Quế rừng (Cinnamomun iners Reinw, họ Long não, Lauraceae).
Cây Bách bệnh (Crassula pinnata Lour. họ Khổ mộc Simarubecae).
Thành phần hóa học: Trong vỏ hậu phác bắc người ta đã thấy các chất kết tinh: Magnolol C18H18O4 Tetrahydro - magnolol, Iso - Magnolol, alkaloid (magnoflorin). Ngoài ra còn có độ 1p100 tinh dầu, trong đó chủ yếu là machilol C15H26O/
Trong hoa Hậu phác có tinh dầu.
Trong vỏ cây Gie và cây Chành chành có tinh dầu.
Công dụng: Theo Đông y, Hậu phác vị đắng cay, tính ấm, vào 3 kinh: Tỳ, Vị, Đại trường. Có tác dụng làm ấm dạ dày, đưa hơi đi xuống, làm hết đầy, trừ thấp, tiêu đờm, tiêu ứ, phá tích.
Dùng chữa các chứng bệnh bụng đầy, trướng đau, nôn mửa, ăn uống không tiêu, đại tiện bí, táo, tả lỵ, ho hen có đờm.
Mới đây người ta thấy tác dụng kháng sinh của nước sắc hậu phác đối với trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, staphylococ, streptococ và trực khuẩn lỵ Shiga.
Liều dùng: 3-10g, sắc uống. Có thể chế với nước gừng (10kg hậu phác nấu với 1kg gừng sống rồi vớt hậu phác ra thái) gọi là Khương hậu phác.
Lưu ý:
1. Người tỳ vị hư nhược và phụ nữ có thai không được dùng.
2. Theo Đông y, hoa hậu phác vị đắng, tính ấm, có tác dụng điều hòa khí, trừ thấp. Dùng chữa các chứng bệnh tức ngực.
Liều dùng: 1,5-6g hãm, sắc uống.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa đau bụng, viêm ruột lỵ, tiêu khuẩn, bí đại tiện:
Hậu phác 6g
Chỉ thực 3g
Đại hoàng 3g
Sắc uống.
Bài số 2: Thang hậu phác, quế chi chữa chứng sợ gió, tự ra mồ hôi, ho suyễn:
Hậu phác 9g
Bạch thược 9g
Đại táo 9g
Quế chi 9g
Gừng sống 9g
Hạnh nhân 9g
Cam thảo 9g
Sắc uống.
Bài số 3: Thang hậu phác, ma hoàng, chữa ngực tức đầy, sinh hen suyễn, viêm phế quản mạn tính:
Hậu phác 6g
Thạch cao sống 15g
Ngũ vị tử 3g
Gừng khô 1,5g
Ma hoàng 3,0g
Hạnh nhân 9g
Bán hạ 9g
Tế tân 1,5g
Sắc uống.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, râm mát, tránh làm mất tinh dầu thơm.
Biệt dược (phối hợp): Bình vị tán - Hoắc hương chính khí - Hương nhu hoàn.
Bài thuốc Bình vị tán:
Nguyên bản bài thuốc:
Bình vị tán
Thành phần bài thuốc:
Thương truật 6-12g
Cam thảo 4g
Hậu phác 4-12g
Trần bì 4-12g
Cách dùng:
Các thuốc tán bột mịn mỗi lần uống 6-12 g với nước sắc Gừng 2 lát, Táo 2 quả. Có thể dùng làm thuốc thang sắc uống, theo nguyên phương, lượng gia giảm.
Tác dụng: Kiện tỳ táo thấp, hành khí đạo trệ.
Giải thích bài thuốc:
Trong bài, vị Thương truật kiện tỳ táo thấp là chủ dược, Hậu phác trừ thấp giảm đầy hơi, Trần bì lý khí hóa trệ, Khương, Táo, Cam thảo điều hòa tỳ vị.
Ứng dụng lâm sàng:
Trên lâm sàng chữa chứng tỳ vị thấp trệ có triệu chứng bụng đầy, miệng nhạt, nôn, buồn nôn, chân tay mệt mỏi, đại tiện lỏng rêu trắng dầy nhớt .
Trường hợp thấp nhiệt nặng gia Hoàng cầm, Hoàng liên.
Nếu thực tích bụng đầy, đại tiện táo kết gia Đại phúc bì, La bặc tử, Chỉ xác để hạ khí thông tiện.
Trường hợp bên trong thấp trệ, thêm ngoại cảm, triệu chứng có nôn, bụng đầy, sốt sợ lạnh gia hoắc hương, chế Bán hạ để giải biểu hoá trọc gọi là bài "Hoán kim chính khí tán".
Trường hợp sốt rét ( thấp ngược) mình mẩy nặng đau, Mạch nhu, lạnh nhiều nóng ít, dùng bài này hợp với "Tiểu sài hồ thang" để điều trị gọi là bài “Sài bình thang”.
(Nội kinh thập di phương luận)
Bài này gia Tang bạch bì gọi là "Kim ẩm tử" trị chứng tỳ vị thấp người nặng, da phù.
Trên lâm sàng có báo cáo dùng bài này chữa viêm dạ dày mãn tính, đau dạ dày cơ năng bụng đầy ăn kém, rêu trắng dày.
Bài này đắng cay, ôn táo nên thận trọng với phụ nữ có thai.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Bài thuốc Hoắc hương chính khí tán
Nguyên bản bài thuốc:
Hoắc hương chính khí tán
Thành phần bài thuốc:
Hoắc hương 12g
Cát cánh 8-12g
Bạch linh 8-12g
Hậu phác 6-10g
Tô diệp 8-12g
Bạch truật 8-12g
Bán hạ 8-12g
Trần bì 6-12g
Đại phúc bì 8-12g
Chích thảo 4g
Sinh khương 8g
Đại táo 4 trái
Cách dùng: Tán bột mịn mỗi lần uống 6-12g sắc với nước gừng và đại táo. Có thể dùng thuốc thang.
Tác dụng: Giải biểu, hòa trung, lý khí hóa thấp.
Tác dụng lâm sàng: Chữa ngoại cảm kèm ỉa chảy, nôn mửa, viêm đường ruột cấp, có triệu chứng: biểu hàn nội thấp.
Trường hợp làm thuốc thang sắc uống, nếu chứng biểu nặng gia tô điệp để sơ tán tiểu phong, thường hợp thực tích bụng đầu tức bỏ Táo, Cam thảo gia Thần khúc, Kê nội kim để tiêu thực, nếu thấp nặng, Mộc thông, Trạch tả để lợi thấp.
Biểu chứng nặng gia: Tô diệp, Thực tích bụng đầy trướng bỏ táo, Cam thảo gia: Mạch nha,Thần khúc...
Thấp nặng gia: Mộc thông, Trạch tả. Thuốc này được dùng nhiều vào mùa hè khi bên trong thì bị lạnh, bên ngoài cảm thử thấp, trong bụng thức ăn thức uống không tiêu, do đó dẫn tới đau đầu, đi tả, nôn mửa, vùng dưới tim đầy tức, bụng đau, người sốt nhưng không ra mồ hôi. Thuốc có tác dụng làm tiêu tán thử thấp, làm tiêu hóa thức ăn thức uống. Thuốc được sử dụng cho những người thể chất còn tương đối khá bị trúng thử, bị viêm chảy ruột dạ dày vào mùa hè, đau bụng do thần kinh ở những người phụ nữ trước hoặc sau khi đẻ, dùng để chữa ho, đau mắt, đau răng, đau họng do thức ăn không tiêu ở trẻ em, và người ta thêm nhiều Ý dĩ nhân để chữa mụn cơm.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Vị thuốc Ý dĩ kỵ thai khi dùng cần chú ý.
Thần khúc Tỳ âm hư vị hỏa thịnh không nên dùng, phụ nữ có thai nên ít dùng.
Vị thuốc Mộc thông có độc (ít độc) không nên dùng quá lâu.
Bài thuốc Hương Nhu Hoàn
Nguyên bản bài thuốc:
Hứa Quốc Trinh
Chủ trị: Trị thương hàn phục nhiệt, táo khát, buồn phiền, đầu đau, hoa mắt, ngực đầy, mỏi mệt, không muốn ăn uống.
Thành phần bài thuốc:
Cam thảo 16g
Đàn hương 16g
Đinh hương 16g
Hoắc hương diệp 16g
Hương nhu 30g
Mộc qua 30g
Phục thần 16g
Tử tô 30g
Tán bột. Luyện mật làm viên. Mỗi lượng làm 30 viên.
Mỗi lần uống 1–2 viên, nhai nát, uống với nước nóng.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Vị thuốc Đinh hương kỵ với Uất kim, khi dùng cần chú ý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét