MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - EUCALYPTUS GLOBULUS LABILL. (KHUYNH DIỆP)
KHUYNH DIỆP 桉树 Ānshù
Tên khoa học: Eucalyptus globulus Labill. họ Sim (Myrtaceae).
Tên khác: Bạch đàn xanh - Lam an (TQ) - Ngọc thụ - Eucalyptus (Pháp).
Bộ phận dùng: Lá bánh tẻ của cây Khuynh diệp (Folium Eucalypti) gọi là An diệp (TQ).
Lá Khuynh diệp đã được đưa vào Dược điển Liên Xô (cũ) 1961.
Cành non của cây Khuynh diệp (Ramulus Eucalypti).
Tinh dầu cất từ lá cây Khuynh diệp (Aetheroleum Eucalypti). Đã được ghi vào DĐVN (1997). DĐTQ (1997) ghi là Oleum Eucalypti.
Mô tả: Cây Khuynh diệp xanh là một cây to thường mọc thẳng, có thể cao tới 40m. Khi cây non, lá hơi hình trứng nhọn, mọc đối. Khi cây trưởng thành, lá hình lưỡi liềm dài 20-25cm, rộng 1-2,5cm, mọc so le, lá trơn láng, hơi trắng như có lớp sáp, có 1 gân chính giữa nổi và nhiều gân phụ, các gân phụ tiếp hợp nhau làm thành một đường viền quanh lá. Lá mọc hơi nghiêng và hình cong lưỡi liềm (nên có tên là Khuynh diệp). Phiến lá soi lên thấy nhiều túi tinh dầu. Ở kẽ lá, những nụ hoa hình núm bánh in dạng ly hình trụ, lật ngửa, có 4 cạnh tương ứng với 4 lá đài.
Mùa hoa: tháng 5. Trái hình chén, cây nhập từ châu Australia, trồng khắp nơi ở Việt Nam (đồi núi, đồng bằng, ven biển... Đây là một nguồn mật lớn cho ong. Tuy vậy cây Khuynh diệp chịu lạnh kém...).
Vỏ cây Khuynh diệp màu trắng trơn láng, dễ tróc vì vậy nhiều nơi quen gọi nhầm là Bạch đàn (thật ra, cây Bạch đàn chính là cây Santalum album L., họ Đàn hương, Santalaceae. Tránh nhầm lẫn với cây Tràm (Melaleuca leucadendron L. cùng họ Som) còn gọi là cây Chè cay.
Ngoài ra còn có loài Khuynh diệp chanh (còn gọi Bạch đàn chanh, Eucalyptus citriodora) lá mùi như tinh dầu vỏ chanh, khuynh diệp trắng (Eucalyptus camaldulensis hay E. rostrata Schlecht), khuynh diệp lá đỏ (E. Robusta Sm), khuynh diệp lá liễu (E. exserta F.v.Muell...) v.v... không dùng làm thuốc.
Thu hái chế biến:
Thu hái vào mùa hè. Khi lá tươi tốt, cắt lây lá đem về cất tinh dầu theo lối cất kéo. Khi được tinh dầu, chú ý loại ngay nước bằng natri sulfat khan.
Lá và tinh dầu khuynh diệp mùi thơm, vị cay. Tinh dầu khuynh diệp phải trong, màu hơi vàng lục, mùi thơm đặc biệt, trung tính, không đục, không có cặn. Tỷ lệ Cineol trung bình 70p100. Tỷ trọng ở 25°C: 0,900 - 0,924. Chỉ số khúc xạ ở 20°C: 1,8-1,470.
Tinh dầu khuynh diệp và tinh dầu tràm dễ bị pha thêm dầu lửa.
Thành phần hóa học: Lá và cành non chứa tinh dầu (tỷ lệ 0,92p100), trong đó chủ yếu là cineol C10H18O tỷ lệ 50-70p100 cũng còn gọi là Eucalyptol.
Ngoài ra còn có các chất tanin, chất đắng, nhựa. Tinh dầu khuynh diệp (Aetheroleum cejeputi) đã được đưa vào DĐVN (1997). Tinh dầu phải chứa từ 60-70p.100 (tt/tt) eucalyptol (C10H18O). DĐVN (1997) ghi tinh dầu bạch đàn là Aetheroleum eucalypti.
Lá và cành non sắc hoặc ngâm rượu pha uống có tác dụng giúp tiêu hóa, chữa cảm cúm, trừ đờm, sát trùng. Ngậm, súc miệng chữa bạch hầu, viêm amydal. Dùng ngoài da, nước sắc lá khuynh diệp để rửa vết thương lên mủ, viêm loét kết quả tốt.
Tinh dầu khuynh diệp dùng xoa bóp để chữa đau nhức, tê thấp do bị lạnh, ho tức ngựa, cảm mạp, phụ nữ lạnh chân sau khi đẻ, chân tay mỏi mệt.
Tinh dầu khuynh diệp tinh chế có thể chế thuốc tiêm chữa ho (2ml = 0,20g) hoặc pha syrup ho.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, râm mát, tránh ẩm nóng.
Biệt dược (phối hợp): Balsofumine - Balsofletol - Biocalyptol - Calyptol, Ciclimenol - Eucalptine le Brun - Mialgin - Necyrane - Pectole E - Pectusin - Pholcones - Pulmofluide - Pulmoll Solubeol - Thiophenicol - Tuberol - Triphires - Vapo Myrtol - Vicks Vaporub.
Balsofumine được khuyên dùng để thông mũi cho các bệnh về đường hô hấp thông thường (cảm lạnh, viêm mũi, viêm mũi họng) ở người lớn và trẻ em trên 12 tuổi.
Biocalyptol thường được dùng sử dụng để điều trị các tình trạng về sổ mũi, hắt hơi, ngứa và chảy nước, mắt do dị ứng, cảm lạnh hoặc cúm.
Siro trị ho Mucosolvan giúp giảm ho và làm loãng đờm- Balan- 100ml
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét