Thứ Năm, 23 tháng 1, 2025

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - DRYNARIA FORTUNEI (KZE) J.SM (CỐT TOÁI BỔ)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - DRYNARIA FORTUNEI (KZE) J.SM (CỐT TOÁI BỔ)

CỐT TOÁI BỔ

Tên khoa học: Drynaria fortunei (Kze) J.Sm. họ Dương xỉ (Polypodiaceae).

Tên khác: Bổ cốt toái - Cây tổ phượng - Cây tổ rồng - Co tạng tó - Co in tó - Nham khương - Cốt toái bổ (TQ) Fortune Drynaria (Anh).

 

 

 

 























Bộ phận dùng: Thân - rễ (thường gọi là củ) cây Cốt toái bổ (Rhizoma Drynariae) đã chế biến khô.

Đã được ghi vào DĐVN (1983) DĐTQ (1963), (1997).

Mô tả: Cây Cốt toái bổ là một cây thường sống riêng trên các hốc đá, cây lớn, trên những đám rêu, trên những thân cây sống lâu năm, có thân - rễ dày mầm, phủ nhiều vẩy màu vàng bóng. Có hai loại lá: lá bất thụ, không cuống, mầu nâu, hình trứng, dài 5-8cm, rộng 3-6cm, phía cuống hình tim, có thùy, gân nổi rõ.

Lá hữu thụ, màu xanh, nhẵn, kép lông chim, dài 25-40cm, cuống có dìa, có thùy thuôn, tù ở đầu, dài 5-6cm, có mạng, ổ tử nang nhiều, xếp thành một hàng ở mỗi bên gân chính, hình tròn, không có áo tử nang.

Cốt toái bổ mọc hoang bám vào đá, hay vào các thân cây vùng rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, các tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên...

Thu hái chế biến: Mùa thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa đông, xuân (ở ta thường vào tháng 4-8). Đào bới ở các hốc cây lớn, hay hốc đá, hoặc bóc quanh thân cây lấy củ, cắt bỏ các rễ và lá còn sót lại, rửa sạch đất cát, chọn lấy các củ to đạt yêu cầu, cắt thành từng đoạn theo đúng kích thước quy định. Đem phơi hoặc sấy đến khô (nếu đồ lên rồi phơi thì dễ bảo quản hơn).

Thủy phần dưới 13p100.

Cốt toái bổ không mùi, vị nhạt, hơi chát.

Loại cốt toái bổ khô, thân-rễ thật già, to mập, da màu nâu, thịt màu hồng, không mốc mọt, không vụn nát, không lẫn tạp chất là tốt.

Không dùng loại cốt toái bổ thịt màu trắng. Củ cốt toái bổ to, đường kính củ không trên 1cm, cắt thành từng đoạn dài 10-20cm. Thủy phần an toàn dưới 13p100.

Tránh nhầm lẫn với:

1. Tắc kè đá (Drynaria bonii Christ (Koenig). Desv. thường sống bám ở vách đá, thân-rễ màu xanh lục, hình dẹt, nhiều người dùng củ tắc kè đá như cốt toái bổ.

2. Cây tổ rồng (Platycerium coronarium) và cây tổ điều (Asplenium nidus Linn., họ Tổ điều (Aspleniaceae), thân rễ nhỏ, không dùng làm thuốc.

Thành phần hóa học: Hiện nay còn chưa rõ hoạt chất của cốt toái bổ, chỉ mới thấy có tinh bột, glucose...

Công dụng: Theo Đông y, cốt toái bổ vị đắng, tính ấm, vào 2 kinh Can, Thận.

Có tác dụng bổ thận, làm cho xương vững chắc, gân bền khỏe, phá huyết ứ, cầm máu, giảm đau. Chủ yếu dùng chữa thận hư, ù tai, răng đau (tán nhỏ cho vào thận heo, nướng chín mà ăn lúc đói).

Liều dùng: 5-10g, sao tán bột, hay sắc uống.

Nếu chưa sạch lông nhung thì phải sao với cát cho nở, tới khi lông cháy xém, sàng bỏ cát, để nguội.

Dùng tươi đắp bó ngoài da, lượng vừa đủ.

Lưu ý: Những người âm hư, huyết hư mà không ứ trệ, không được dùng.

Bài thuốc:

Bài số 1: Chữa gãy xương:

Cốt toái bổ tươi                                    20g

Lá sen tươi                                           10g

Lá trắc bá tươi                                      10g

Trái bồ kết tươi                                       5g

Nghiền tán, khi dùng đắp bó vào chỗ đau.

Bài số 2: Kinh nghiệm dùng cốt toái bổ chữa bong gân, tụ máu (Lê Sỹ Toàn và Lò Văn Sú, Quân y viện Tây Bắc).

Cốt toái bổ tươi hái về, bóc bỏ hết lông tơ và lá khô, sau đem rửa sạch và giã nhỏ. Nhỏ một ít nước vào, gói vào lá, đem nướng cho mềm, rồi đắp lên các vết đau. Trong một ngày thay thuốc, bó nhiều lần. Nếu không đủ Cốt toái bổ, có thể chỉ lấy bã thuốc ra, nhỏ nước rồi lại băng lại. Thường chỉ sau 3 ngày đến 1 tuần là người bệnh đỡ và ra viện trong khi dùng các phương pháp khác hàng tháng mà không đỡ. Không dùng cho gãy xương hở.

Bài số 3: Chữa đau nhức răng muốn rụng do yếu thận:

Cốt toái bổ 100g thái nhỏ, sao đen, tán thành bột, thường xuyên chải bôi vào răng, ngậm thật lâu rồi mới nhổ, có thể nuốt cũng được, răng sẽ bền không rụng, không chảy máu.

Bảo quản: Cốt toái bổ tươi thì vùi vào đất cát hoặc để chỗ ẩm ướt. Cốt toái bổ khô thì để nơi khô ráo, thoáng gió.


Thứ Hai, 20 tháng 1, 2025

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - POLYGONUM CUSPIDATUM SIEB. ET ZUCC. (CỐT KHÍ)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - POLYGONUM CUSPIDATUM SIEB. ET ZUCC. (CỐT KHÍ)

CỐT KHÍ

Tên khoa học: Polygonum cuspidatum Sieb. et Zucc. họ Rau răm (Polygonaceae).

Tên khác: Hổ trượng căn (TQ) - Ban trượng căn - Hoạt huyết đơn - Tử kim long - Cốt khí củ.














Bộ phận dùng: Thân - Rễ (thường gọi là củ) cây cốt khí (Rhizoma Polygoni cuspidati) phơi khô. Đã được ghi vào DĐTQ (1997).

Mô tả: Cây cốt khí là một cây nhỏ, sống lâu năm, cai 0,50 - 1m, thân nhỏ yếu, đường kính độ 4mm, trên thân và cành thường có những đốm màu tím hồng.

Lá mọc so le, phiến lá hình trứng rộng, đầu trên hơi thắt nhọn, phía cuống hơi phẳng hoặc hơi hẹp lại, mép nguyên, dài 5-12cm, rộng 3,5-8cm, cuống 1-3cm, có bẹ chia ngăn, mặt trên màu xanh nâu đậm, mặt dưới màu nhạt hơn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá, mang rất nhiều hoa nhỏ, cánh hoa màu trắng, hoa khác gốc, hoa đực có 8 nhị, hoa cái có bầu hình trứng với 3 cạnh, 3 núm. Trái khô 3 cạnh, màu nâu đỏ (ở đồng bằng ra hoa tháng 8-9, ra trái tháng 9-10).

Cây cốt khí ưa ẩm, mọc hoang ven đường và vùng đồi núi: nhiều nhất ở Lào Cai, Hải Hưng, Hòa Bình, Ninh Bình, thường các gia đình đều trồng một ít để dùng làm thuốc, trồng bằng rễ củ, rất dễ mọc.

Thu hái chế biến: Mùa thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào tháng 8 - 9 (có nơi thu hái tháng 2-3). Đào lấy rễ rửa sạch đất cát, bỏ rễ con, phơi khô. Có thể thái thành phiến mỏng. Cốt khí không mùi, vị hơi đắng.

Loại cốt khí khô, thịt vàng, có nhiều bột, không mốc mọt, vụn nát là tốt. Để nguyên to đường kính trên 2cm, hoặc thái vát thành phiến mỏng dưới 4mm.

Tránh nhầm lẫn với cây Cassia occidentalis họ đậu (Fabaceae) nhiều nơi gọi là Cốt khí muồng - Đậu săn (Tên khác: Vọng giang nam, Dương giác đậu).

Cây Cốt khí muồng là một cây nhỏ cao 0,60-1m, thân phía dưới hóa gỗ. Lá mọc so le, lá kép lông chim chẵn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hay đầu cành, 5 cánh màu vàng nhạt. Trái loại đậu: dài 6-10cm, rộng 7mm, hơi cong hình cung, giữa các hạt hẹp lại làm cho trái tựa như thành đốt.

Thành phần hóa học: Trong rễ cốt khí có chất anthraglucosid: chủ yếu là Emodin hay Rheum emodn C15H10O5, Emodin monometyl ete C15H10O5 dưới dạng tự do kết hợp. Ngoài ra còn có tanin và polygonin C21H20O10. Tỷ lệ oxy - methylanthraquinon trong rễ củ cốt khí là 3 - 4p100.

Công dụng: Theo kinh nghiệm nhân dân ta dùng cốt khí với tác dụng giảm đau, chủ yếu chữa tê thấp, đau nhức gân xương, hoặc bị ngã, đau bị đánh có thương tích.

Theo các tài liệu Trung Quốc, cốt khí có tác dụng thông kinh lạc, lợi tiểu, giải độc. Dùng chữa rắn cắn, bí đái, viêm gan, phụ nữ tắc kinh, đẻ xong bị máu ứ hoặc bị đau bụng.

Liều dùng: 6-10g. Sắc uống hoặc ngâm rượu. Có thể dùng sống hay sao vàng. Thường phối hợp với Uy linh tiên, Phòng kỷ.

Lưu ý: Phụ nữ có thai không được dùng.

Bảo quản: Cốt khí rễ bị mọt, cần để nơi khô ráo, thoáng gió.

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - COLA ACUMINATA SP. (CÔLA)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - COLA ACUMINATA SP. (CÔLA)

CÔLA

Tên khoa học: Cola Acuminata sp. họ Trôm (Sterculiaceae).

Tên khác: 2 loài chủ yếu: Cola nitida A. Chev. và Cola verticillata Stapf.







Bộ phận dùng: Hạt chế biến, phơi sấy khô (Semen Colae nitidae).

Mô tả: Cây cao 10-15m, lá nguyên, hình trứng, dài thuôn nhọn, dài 15-25cm, rộng 6-10cm, cuống lá phình ở dưới, lá mọc đơn độc (Cola nitida). Hoa chùm nhỏ, kép hoặc toàn hoa đực, hoặc hoa đực và lưỡng tính. Không có tràng mà chỉ có 5 lá đài trắng điểm tía, 10 nhị đực xếp thành hai hàng, nhụy hình trứng gồm 5-6 lá noãn. Trái gồm 2-6 đại hóa gỗ hợp thành hình sao quanh cuống. Mỗi đại dài 8-12cm,  rộng 4-8cm, có sống ở lưng và rãnh ở bụng. Mặt trái xù xì thành những u. Mỗi trái chứa 5-10 hạt to, xếp thành 2 hàng, dáng 4 cạnh, biến dạng do ép vào nhau, màu trắng hồng hay đỏ khi còn tươi. Cola nitida chỉ có 2 lá mầm to gọi là demi, một số loài khác các lá mầm chia thành 4, thành 6 gọi là Cola "quart".
Cola có nhiều ở châu Phi (Ghine, Ghana...) đã di thực đến một số nước khác như Indonesia, Brasil.. Nước ta, trước đây cũng có trồng thử ở Phú Thọ mọc tốt nhưng chưa được nhân ra.

Thu hái chế biến: Hái trái chín, mở lấy hạt xếp đống hay ngâm nước vài ngày, xát, rửa cho hết vỏ nhầy. Khi dùng đặt hạt chỗ ẩm, bọc trong lá chuối, để trong thúng - xuất đi phải làm khô bằng hút ẩm nhưng phải ổn định bằng hơi nước hoặc cồn để tránh biến màu hạt. Hạt có thể nặng tới 25g.

Thành phần hóa học: Hạt chứa 10-12p100 nước, 2-4p100 chất vô cơ, 40p100 tinh bột, ít đường khử, 1-2p100 chất béo, ít betain và chất nhầy. Hạt tươi màu vàng (sắc tố antocyan) khô thì mất.

Hoạt chất cola có 2 nhóm:
Nhóm tanoid 5-10p100 là kolatin và kolatein, d. catechola, l.epicatechola, trong hạt tươi ở dạng kết hợp với cafein. Catechola thường bị oxy hóa, trùng hợp hóa cho màu đỏ cola.
Nhóm các alkaloid dẫn xuất purin gồm cafein từ 1,5-2,5p100 và một ít theobromin.

Công dụng: Là chất kích thích, dẻo dai, tỉnh táo, lao động giảm mệt nhọc (nhai hạt). Người ta cho rằng đó là tác dụng của cafein và catechola. Rất tốt khi dùng cho người lao động đúng mức. Nếu dùng liều cao thì ngược lại.
Tây y dùng bài thuốc này đã lâu, làm thuốc kích thích dưới dạng bột, cao lỏng (1,25p100 cafein) cao mềm (10p100 cafein), cồn thuốc, rượu thuốc.
Phối hợp hoặc riêng lẻ làm nước giải khát côla, côca-côla. Một số nước giải khát mang tên nhưng chỉ có cafein, chất màu và 1 vài chất khác cùng hương vị tổng hợp chứ không phải từ hạt côla.

Liều dùng: Cao lỏng, bột côla: 1-2g/ ngày. Cồn cola: 2-10g/ ngày.








🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - ABUTILON INDICUM (L.) SWEET (CỐI XAY)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - ABUTILON INDICUM (L.) SWEET (CỐI XAY)

CỐI XAY (Cây)

Tên khoa học: Abutilon indicum (L.) Sweet họ Bông (Malvaceae).

Tên khác: Giằng xay - Kim hoa thảo - Ma mãnh thảo - Nhĩ hương thảo (TQ).

























Bộ phận dùng: Cả cây (phần trên mặt đất) tươi hay đã chết biến khô của cây cối xay (Herba Abutili indici).

Đã được ghi vào DĐVN (1983).

Mô tả: Cây cối xay là một loại cây nhỏ, sống hàng năm hay lâu năm, thường mọc thành đám, quần thể đông, cao 0,50-1,50m, toàn thân và các bộ phận của cây (cành, lá...) đều có lông mềm. Lá mọc cách, phiến lá hình tim, mép khía răng cưa. Hoa nhỏ, vàng, mọc ở nách lá, cuống dài. Trái gồm gần 20 lá noãn dính nhau thành hình tròn, giữa hơi lõm xuống nom như cái cối xay lúa. Hạt nhỏ hình thận, màu đen, đường kính độ 2mm.

Mùa hoa, trái: tháng 2-6.

Cây cối xay mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Tự hạt rụng rồi lan đi. Các nước Đông Nam Á, Ấn Độ đều có.

Thu hái chế biến: Thu hái vào mùa hạ khi cây mới ra hoa, hoặc mới kết trái.

Cắt đem phơi khô là được.

Thủy phần dưới 13p100.

Thành phần hóa học: Lá + rễ: chứa nhiều chất nhày và asparagin.

Hạt chứa raffinose và dầu nửa khô gồm chủ yếu là glycerid của acid linoleic, oleic, palmitic, stearic.

Rễ chứa dầu béo, β-sitosterol và 1 alkaloid chưa xác định.

Công dụng: Theo Đông y, cối xay vị hơi ngọt, tính bình. Vào 2 kinh Tâm, Đởm.

Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy.

Chữa các chứng bệnh cảm mạo, sốt nóng, sốt cao, đau đầu, ù tai, sốt vàng da, tiểu tiện vàng đậm, phù thũng, đái buốt, phụ nữ đới hạ, lở ngứa.

Liều dùng: 5-15g, lá sắc uống. Hạt: 2-4g (sắc uống).

Lưu ý: Người thuộc chứng thận hư hàn, đi tiểu nhiều, trong, ỉa chảy không dùng.

Cây cối xay của ta rất giống cây Thương Ma (Abutilon avicennae Gaetn.) của Trung Quốc, dùng hạt gọi là Đông tùy tử (xem mục Thương ma) ta có thể dùng hạt, rễ chữa bệnh.

Bảo quản: Để nơi khô mát.



🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - STELLARIA DICHOTOMA L. VAR. LANCEOLATA BGE (NGÂN SÀI HỒ)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - STELLARIA DICHOTOMA L. VAR. LANCEOLATA BGE (NGÂN SÀI HỒ) NGÂN SÀI HỒ Tên khoa học: Stellaria dichotoma L. var. lanceo...