MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - CITRUS AURANTIUM L. (CHẤP/ TRẤP - CHÚC/ TRÚC)
CHẤP/TRẤP - CHÚC/ TRÚC
Tên khoa học: Citrus aurantium L. họ Cam (Rutaceae).
Tên khác: Chỉ thực - Chỉ xác - Orange (Pháp + Anh).

Bộ phận dùng:
Chỉ thực trái non, còn nhỏ, phơi khô của các loại dây chấp (Fructus Aurantii immaturus).
Chỉ xác: trái các loại cây chấp hái lúc đã khá to nhưng còn xanh rồi bổ đôi và phơi khô (Fructus Auranthii).
Đã được ghi vào DĐTQ (1963) (1997).
Mô tả: Cây chấp (trấp) thường mọc hoang nhiều ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, cao độ 2-3 mét, gần giống cây cam, nhưng trái xanh hay chín đều rất chua nên không dùng ăn, thường để gội đầu thay chanh.
CÂY CHẤP


Thu hái chế biến:
1. Chỉ thực: Mùa thu hái khoảng tháng 4-5. Khi trời khô ráo, nhặt các trái chấp non mới rụng, ở các gốc cây, chưa bị úa hoặc thối vàng (cũng có khi tỉa những cây sai quả). Tùy theo quy cách mà để nguyên trái hay đem cắt ngang làm đôi xong đem phơi hay sấy nhẹ (40-50°C) đến thật khô.
Cam, quýt ở ta có 2 thời kỳ rụng trái sinh lý chính:
Thời kỳ thứ 1: sau khi hoa nở rộ 30-35 ngày (cuối tháng 4 đến tháng 5) thu hoạch chỉ thực.
Thời kỳ thứ 2: Tháng 8-9 (trước khi trái chín): thu hoạch chỉ xác.
Chỉ thực khô, vỏ mầu nâu sẫm, có tinh dầu, vị the, cùi thật dày và đắng, chưa có ruột múi hoặc ruột còn nhỏ, đường kính ruột dưới 2/5 đường kính cả trái. Không mốc mọt.
Loại chỉ thực đường kính dưới 1cm, thì để nguyên trái mà phơi khô loại chỉ thực đường kính 1-1,5cm, thì cắt đôi. Không lấy những trái to đường kính trên 1,5cm; không lấy những trái bưởi non.
Thủy phần an toàn dưới 12p100.
2. Chỉ xác: Mùa thu hái khoảng 8-9 (cuối hạ sang thu) khi trời khô ráo, nhặt những trái chấp xanh mới rụng chưa bị úa vàng, thối vàng, hoặc hái tỉa những trái chấp xanh đạt kích thước, đem về cắt ngang làm đôi rồi phơi hoặc sấy nhẹ (40-50°C) đến thật khô.
Chỉ xác khô vỏ màu nâu sẫm, vị the, cùi trắng dày trên 0,5cm mép ngoài quăn mũi heo, ruột múi thật khô, không sâu mốc. Trái to đường kính 3-4cm, tối đa là 5cm cắt đôi. Thủy phần an toàn dưới 12p100.
Thông thường còn lấy cả trái cây cam hôi để chế biến làm chỉ xác.
CHỈ XÁC
Thành phần hóa học: Chỉ thực, chỉ xác có chứa tinh dầu. Hiện nay còn chưa nghiên cứu rõ.
Công dụng:
1. Chỉ thực: Theo Đông y, chỉ thực vị đắng, tính lạnh, vào hai kinh Tỳ, Vị.
Có tác dụng thông hô hấp, tiêu đờm, tiêu chất tích đọng. Dùng chữa các chứng bệnh đau tức ngực - sườn, tắc đờm, ăn không tiêu, táo bón.
Liều dùng: 3-6g. Sắc uống.
2. Chỉ xác: Theo Đông y, chỉ xác vị đắng chua tính lạnh, vào 2 kinh Tỳ, Vị. Có tác dụng thông hơi, giúp hô hấp, thông đờm, tiêu thực.
Dùng chữa các chứng bệnh tức ngực, đờm vướng, ăn không tiêu.
Liều dùng: 3-9g sắc uống.
Chỉ thực mạnh hơn chỉ xác, nên chỉ xác có thể uống tới 12g một ngày.
Lưu ý: Tỳ vị hư hàn nhưng không thấp, tích, phụ nữ có thai gầy yếu không được dùng.
Bảo quản: Để nơi râm mát, tránh ẩm nóng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét