MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - GLYCYRRHIZA URALENSIS FISCH. (BẮC CAM THẢO)
CAM THẢO
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. - Glycyrrhiza glabra L., họ Cánh bướm (Papilionaceae).
Tên khác: Cam thảo bắc - Mật thảo - Phấn thảo - Quốc lão - Resglisse - Racine douce - Liquorice (Anh).
Bộ phận dùng: Rễ và thân - rễ của cây cam thảo (Radix glycirrhizae) phơi hay sấy khô. Đã được ghi vào DĐVN (1983), DĐTQ (1963-1997). Ngoài 2 cây: G. uralensis và G.glabra, DĐTQ (1997) còn ghi dùng thêm về cây G. inflata Bat.
Mô tả: Có 2 cây đều dùng làm thuốc.
1. Cây cam thảo Uran (Glycyrrhiza uralensis) là một cây cỏ sống lâu năm, cao 1-1,5m. Toàn thân cây có lông rất nhỏ. Lá kép lông chim lẻ, lá chét 9-17, hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên. Hoa nở vào mùa hạ và mùa thu, hình cánh bướm, màu tím nhạt. Trái giáp, cong hình lưỡi liềm, màu nâu đen, mặt ngoài có nhiều lông, trong đó có 2-8 hạt nhỏ dẹt, màu xám nâu hoặc xanh đen nhạt, mặt bóng.
2. Cây Cam thảo thân nhẵn (Glycyrrhiza glabra) rất giống cây cam thảo Uran nhưng khác ở chỗ: thân nhẵn, lá chét thuôn dài hơn, đầu không nhọn, hoa ngắn hơn, trái giáp thẳng hoặc hơi cong, mặt trái gần như bóng hoặc có lông ngắn, ít hạt hơn.
Cây Cam thảo mọc hoang nhiều ở Trung Quốc, Mông Cổ, Nga và một số nước châu Âu, ở những nơi đất khô, có calci, cát vàng. Hiện nay ta đang thí nghiệm di thực trồng bằng hạt hoặc bằng thân - rễ, sau 5 năm có thể thu hoạch, nhưng chủ yếu ta vẫn còn phải nhập.
Thu hái chế biến: Thu hái vào mùa đông. Đào lấy rễ và thân - rễ, loại bỏ gốc thân, cành và rễ con rồi cắt thành đoạn theo đúng quy cách. Phơi tái rồi bó thành bó nhỏ, sau lại phơi khô. Nếu đem bỏ lớp vỏ ngoài thì được Phấn thảo.
Thủy phần dưới 14p100.
Loại cam thảo to, da vỏ mịn có những đường rãnh nhăn nheo màu xám nâu, khô chắc, nhiều bột, vị ngọt đậm, mặt cắt ngang màu vàng ngà là tốt.
Loại cam thảo da vỏ cứng, màu đen xám, mặt cắt ngang màu vàng xám, vị đắng thì không dùng làm thuốc.
Hiện nay ta còn dùng nhiều loại cam thảo nam:
1. Cam thảo dây (Abrus precatorius Lin., cùng họ) còn gọi là Dây chi chi, Tương tư đằng. Dùng rễ và lá, dây thay thế Cam thảo bắc, vị hơi ngọt lợ. Hạt gọi là Tương tư tử rất độc nuốt vào có thể chết người nếu không kịp cấp cứu (hạt bóng, đỏ đen rất đẹp nên trẻ em hay chơi). Theo báo cáo rễ cam thảo dây có tác dụng ức chế tình dục, rễ cam thảo dây dùng chữa viêm họng.
2. Cam thảo đất (Scoparia dulcis Lin., họ Hoa mõm chó, Scrophulariaceae) còn gọi là Dã cam thảo (TQ). Dùng cả cây là một trong 10 vị của Bài thuốc Toa căn bản (Viện Đông y) để chữa sốt, giải độc cơ thể, cả cây Dã cam thảo dùng chữa cảm mạo, viêm ruột, ỉa chảy, thủy thũng.
Thành phần hóa học: Trong cam thảo đã phân tích thấy 3-8p100 glucose, 2,4-6,5p100 saccarose, 25-30p100 tinh bột, 0,30-0,35p100 tinh dầu, 2-4p100 asparagin, 11-30mg vitamin C, các chất albuminoid, gôm, nhựa v.v...
Những hoạt chất chính trong cam thảo là chất glycyrizin với tỷ lệ 6-14p100, có khi tới 23p100. Glycyrizin là muối calci và kali của acid glycyrizic. Acid glycyrizic có công thức nguyên là C42H66O16, là một saponin triterpenic, thủy phân sẽ cho một phân tử acid glycyretic và hai phân tử acid glycuronic. Acid glycyrizic và nhất là glycyrizic phối hợp với amoniac hay hydroxyd kiềm thổ lại càng ngọt hơn.
Ngoài ra còn có một số chất flavon (liquiritin, isoliquiritin...)
Công dụng: Cam thảo là một vị thuốc rất thông dụng trong Đông y và Tây y.
Theo Đông y, cam thảo có vị ngọt, tính bình (Cam thảo nướng gọi là Chích thảo thì tính hơi ấm) vào khắp 12 kinh lạc.
Có tác dụng bổ tỳ vị, nhuận phổi, thanh nhiệt, giải độc, điều hòa các vị thuốc.
Dùng chữa các chứng bệnh yếu dạ dày kém ăn, ỉa lỏng, sốt nóng, người mệt mỏi, đau vùng bụng, khát nước, ho đờm, đau họng, tim hồi hộp, bị ngộ độc, mụn nhọt sưng đau: Theo Tây y, cam thảo có tác dụng: chống viêm, chống dị ứng, chữa ho, thông đờm giải độc, giảm huyết áp, chống co thắt, ức chế sự bài tiết dịch vị, chữa các vết loét trong hệ tiêu hóa.
Trước đây Tây y chỉ coi cam thảo như một vị thuốc có tác dụng hỗ trợ làm thuốc cho thuốc dễ uống, nhưng hiện nay nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh kinh nghiệm cổ truyền dùng cam thảo chữa bệnh trong Đông y:
1. Muối kali và calci của acid glycyrizic có tác dụng giải độc rất mạnh đối với độc tố của bạch hầu, chất độc của cá lợn Orthopristis chrysoptera (Pig fish), của rắn, hiện tượng choáng (theo Tam Hảo Anh Phu - Nhật Bản).
2. Glycyrizin có khả năng giải độc do Strychnin (theo Cửu Bảo Mộc Hiến và Tinh kỳ Hòa tử - Nhật Bản).
3. Muối natri của acid glycirizic có tác dụng giải độc do cloral hydrat, pilocarpin, histamin, cocain, atropin v.v... (Theo Hậu Đằng Chính, Diệm Ứng Cử, Trương Tín Chi - Trung Quốc, Trung Đảo Sinh Nam, Đại một Nhất hùng - Nhật Bản).
4. Cam thảo có tác dụng gần như cortison (theo J,A.Molhuysen), dùng chữa bệnh Addison.
5. Cam thảo giảm bài tiết vị toan, chữa các bệnh loét đường tiêu hóa (theo Reaver) v.v...
Ngoài ra cam thảo phối hợp trong nhiều đơn thuốc có tác dụng giảm nhẹ hoặc hòa hoãn độc tính của những vị thuốc độc mạnh hoặc có tác dụng dung hòa để có thể cùng sử dụng những vị thuốc vốn dĩ tương kỵ. Thí dụ: thang "Tứ nghịch" (xem vị Phụ tử) trong đó Cam thảo có nhiệm vụ hòa hoãn sức nóng của Phụ tử, Can khương.
Nhai, ngậm Cam thảo hàng ngày có lợi ích tốt với bệnh viêm răng lợi, loét dạ dày - tá tràng.
Thang "Điều vị thừa khí" (xem vị Mang tiêu) trong đó Cam thảo có nhiệm vụ hòa hoãn tác dụng tả hạ của Đại hoàng và Mang tiêu.
Thang "Tiểu Sài hồ" (xem vị Sài hồ) trong đó Cam thảo có nhiệm vụ làm cho Sài hồ, Hoàng cầm đỡ tính hàn (lạnh), hòa hợp với tính ấm của Đảng sâm, Bán hạ.
Dùng trong thang thuốc bổ thì cam thảo làm nhiệm vụ thuốc bổ.
Dùng trong đơn thuốc mát thì cam thảo làm nhiệm vụ giải nhiệt.
Dùng trong bài thuốc nhuận thì cam thảo làm nhiệm vụ dưỡng âm.
Như vậy, chỉ trừ trong một số trường hợp cam thảo đóng vai trò thuốc chính, còn nói chung cam thảo làm nhiệm vụ thuốc hỗ trợ, hiệp đồng, điều hòa, điều vị.
Liều dùng: 1,5-10g, thường dùng sống hay tẩm mật sao, nướng. Cách chế Chích cam thảo: tẩm mật ong, trộn đều, sao nhẹ lửa tới màu vàng sẫm, sờ không dính tay là được (cứ 1kg cam thảo phiến thì làm 150-200g mật ong).
Bài thuốc:
Bài số 1: Ích khí, phục hồi mạch nhịp đều nhanh, chữa các chứng khí huyết đều hư, tim hồi hộp, tự ra mồ hôi:
(Chích) Cam thảo 12g
Gừng sống 9g
Hỏa ma nhân 9g
Thục địa 12g
Mạch môn 9g
A giao 9g
Đảng sâm 9g
Quế chi 9g
Đại táo 4 trái
Sắc uống.
Bài số 2: Chữa các chứng bắp thịt co rút đau buốt:
Thược dược 12g
Cam thảo 12g
Sắc uống.
Bài số 3: Chữa ngộ độc do ăn nấm độc, chữa ngộ độc do thuốc trừ sâu nông nghiệp:
Cam thảo 30g
Phòng phong 30g
(Có thể thêm đậu xanh nấu cháo, uống).
Sắc uống.
Lưu ý: Người yếu dạ dày nhưng bụng đầy, nôn mửa không được dùng.
Cam thảo tương phản với các vị Đại kích, Cam toại, Hải sản, Nguyên hoa.
Dùng Cam thảo quá lâu có thể gây tăng huyết áp khả hồi (HTA résersible).
Trong các bài thuốc thanh nhiệt, giải độc thì dùng sống, trong các bài thuốc bổ thì dùng cam thảo chích, sao.
Xí nghiệp dược phẩm dùng cam thảo chế viên ho Cam thảo, viên Kavet chữa loét dạ dày - tá tràng (có thêm natri hydrocarbonat, Magie carbonat, nitrat basic Bismuth, Đại hoàng).
Bảo quản: Để nơi khô mát, rất dễ mốc, mọt.
Biệt dược (phối hợp): Alcid. V - Bình vị tán - Bạch hổ thang - Carbogast - Carbophos - Bổ phế chỉ khái lộ. Cúc hoa trà điều tán - Drageés Pachaut - Du long thái - Glycomone - Gastrogel - Hoàng kỳ lục nhất thang - Hoàng kỳ kiên trung thang - Hoắc hương chính khí - Kiện vị tiêu hóa - Seirogan - Smecta - Sagastrol - Tang cúc ẩm - Thủ ô bổ dưỡng thang - Thược dược cam thảo thang - Tiểu Sài hồ thang - Vulcase.
Bài thuốc Bình vị tán:
Nguyên bản bài thuốc:
Bình vị tán:
Thương truật 6-12g
Cam thảo 4g
Hậu phác 4-12g
Trần bì 4-12g
Cách dùng:
Các thuốc tán bột mịn mỗi lần uống 6-12g với nước sắc Gừng 2 lát, Táo 2 trái. Có thể dùng làm thuốc thang sắc uống, theo nguyên phương, lượng gia giảm.
Tác dụng: Kiện tỳ táo thấp, hành khí đạo trệ.
Giải thích bài thuốc:
Trong bài, vị Thương truật kiện tỳ táo thấp là chủ dược, Hậu phác trừ thấp giảm đầy hơi, Trần bì lý khí hóa trệ, Khương, Táo, Cam thảo điều hòa tỳ vị.
Ứng dụng lâm sàng:
Trên lâm sàng chữa chứng tỳ vị thấp trệ có triệu chứng bụng đầy, miệng nhạt, nôn, buồn nôn, chân tay mệt mỏi, đại tiện lỏng rêu trắng dầy nhớt.
Trường hợp thấp nhiệt nặng gia Hoàng cầm, Hoàng liên.
Nếu thực tích bụng đầy, đại tiện táo kết gia Đại phúc bì, La bạc tử, Chỉ xác để hạ khí thông tiện.
Trường hợp bên trong thấp trệ, thêm ngoại cảm, triệu chứng có nôn, bụng đầy, sốt sợ lạnh gia Hoắc hương, chế Bán hạ để giải biểu hoá trọc gọi là bài "Hoán kim chính khí tán".
Trường hợp sốt rét (thấp ngược) mình mẩy nặng đau, Mạch nhu, lạnh nhiều nóng ít, dùng bài này hợp với "Tiểu sài hồ thang "để điều trị gọi là bài “Sài bình thang”.
(Nội kinh thập di phương luận)
Bài này gia Tang bạch bì gọi là "Kim ẩm tử" trị chứng tỳ vị thấp, người nặng, da phù.
Trên lâm sàng có báo cáo dùng bài này chữa viêm dạ dày mãn tính, đau dạ dày, cơ năng, bụng đầy, ăn kém, rêu trắng dầy.
Bài này đắng cay, ôn táo nên thận trọng với phụ nữ có thai.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Bài thuốc Bạch Hổ Thang:
Nguyên bản bài thuốc
(Byak ko to)
Thành phần và phân lượng:
Tri mẫu 5g
Gạo tẻ 8g
Thạch cao 15g
Cam thảo 2g
Cách dùng và lượng dùng:
Thang.
Công dụng:
Dùng cho những người bị miệng khát và nhiệt.
Giải thích:
Theo Thương hàn luận: Bạch hổ là thần hành kim canh giữ phía tây, một trong 4 loại thú thần canh giữ 4 phương ở Trung quốc. Đây là một trong những bài thuốc tiêu biểu của thuốc đông y. Trong 4 nguyên tắc trị liệu của đông y: phát hãn (cho đổ mồ hôi), thổ, hạ, trung hòa thì bài thuốc này là loại hàn lương có tác dụng trung hòabệnh nhiệt. Tây phương cũng hàm nghĩa là mùa thu và giải nhiệt, vả lại chủ dược trong bài thuốc này là Thạch cao có màu trắng cho nên bài thuốc này được đặt tên là Bạch hổ thang. Những bệnh nhiệt theo điều kiện có phát sốt đổ mồ hôi, phiền khát thì có rất nhiều như cảm mạo, trúng thử, say nắng, các bệnh nhiệt truyền nhiễm cấp tính, sởi, viêm da, đái đường, hen xuyễn, đau rǎng, bệnh về mắt, đái dầm, các bệnh tinh thần ,v.v... Nhưng nếu bất chấp các điều kiện phải có dương chứng và biểu chứng, nhiệt ở trong cơ mà cứ cho dùng thuốc chỉ cǎn cứ theo tên bệnh thì có nguy cơ càng làm cho bệnh thêm trầm trọng, cho nên trong phần công dụng trong bài thuốc này không ghi tên bệnh mà chỉ nêu bệnh trạng. Những bệnh nhân dùng thuốc này mạch phải hoạt, sác và hồng đại còn những người có mạch trầm, huyết trì và tiểu thì tuyệt đối cấm dùng thuốc này. Thuốc này dùng cho những người không ớn lạnh, cảm thấy người nóng như đốt, hoặc chạm vào sưng thì thấp nóng như đốt.
Trong phần Quyết âm bệnh của Thương hàn luận có viết: "Những người bị thương hàn mạch hoạt mà quyết là nơi là phần lý có nhiệt và phải dùng Bạch hổ thang". Bài thuốc này cũng được dùng trong trường hợp nhiệt bị đọng ở phần lý, còn phần biểu lại lạnh, người ta gọi hiện tượng này là nhiệt quyết. Bài thuốc này cũng còn được dùng để trị chứng di niệu. Sách Thương hàn luận cũng nói bài thuốc này được dùng cho những người bị nhiệt, nói lảm nhảm, ý thức không rõ ràng, bị di niệu. Bạch hồ thang dùng cho những người miệng khát, đái nhiều.
Theo Chẩn liệu y điển và các tài liệu tham khảo khác: Thuốc có tác dụng giải nhiệt, trấn tĩnh, chống khát và được dùng trị các bệnh nhiệt như thân nhiệt, ghê nhiệt, phiền nhiệt v.v...
Đối tượng của bài thuốc này là những người phát sốt đổ mồ hôi, người phiền khát. Miệng lưỡi khô táo rất khát nước, lưỡi khô và có những rêu trắng, đổ mồ hôi, đái rất nhiều, đôi khi có triệu chứng tiểu tiện không dứt, khô háo thể dịch. Bụng không đầy lắm, nhưng cũng có trường hợp đầy bụng. Bài thuốc này được ứng dụng trong các trường hợp:
(a) Những người bị thương hàn, cảm cúm, sởi, những bệnh truyền nhiễm có phát ban, sốt cao, miệng khát, phiền táo, hoặc bị chứng nói mê sảng, bị các chứng về não.
(b) Những người bị sốt cao, miệng khô, háo người do bị say nóng, trúng thử, chứng uremia.
(c) Những người bị suyễn phát bệnh vào mùa hè, những người bị các chứng đái đêm, đái dầm, đau rǎng, đau mắt, đái đường.
(d) Những người bị các chứng bệnh tinh thần, trong mắt nóng như có lửa, quát tháo, nói mê sảng, hát nghêu ngao, cười to, chạy lung tung khát và uống nhều.
(đ) Những người bị các bệnh da nói chung, bị eczema rất ngứa, ngủ không ngon giấc, mồ hôi đổ như tháo, những người nhúng chân xuống nước thì chân bị tê.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bài thuốc Bổ phế chỉ khái lộ:
Thành phần bài thuốc:
Bạch linh 12g
Cát cánh 10g
Tỳ bà diệp 9g
Tang bạch bì 9g
Ma hoàng 4g
Thiên môn đông 6g
Bạc hà 3g
Bách bộ 6g
Bán hạ (thân, rễ) 10g
Mơ muối 6g
Phèn chua 4g
Tinh dầu bạc hà 10ml
Nguyên bản bài thuốc:
Ngân Hải Tinh Vi, Q. Hạ.
Tôn Tư Mạo
Chủ trị:
Sơ phong, chỉ thống, thanh lợi đầu mục. Trị cảm phong tà, nửa đầu đau, mắt đau đỏ do phong nhiệt.
Thành phần bài thuốc:
Bạc hà 32g
Bạch chỉ 6g
Cam thảo 4g
Cúc hoa 4g
Cương tằm 1,2g
Khương hoạt 4g
Kinh giới 16g
Phòng phong 6g
Tế tân 4g
Xuyên khung 16g
Tán bột.
Ngày uống 24g.
Dùng nước trà nóng cho thuốc vào quậy đều uống, cách xa bữa ăn vài giờ.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Trong bài vị Tế tân rất nóng và có độc và phản với vị Lê lô. cần chú ý liều dùng, không gia quá nhiều, và không dùng chung với Lê lô.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bổ khí, sinh tân. Trị các chứng hư tổn, lao nhọc, miệng khô ráo, sắc da vàng úa, không ăn uống được, mồ hôi tự ra, bình bổ khí huyết, làm yên tạng phủ, mụn nhọt.
Lúc dùng bài thuốc trị bệnh sốt rét lâu ngày khí huyết hư nhược, nếu tỳ khí hư gia Bạch truật, Chích thảo bổ tỳ khí, nếu lách to gia Miết giáp để nhuyễn kiên, ngoài ra tùy tình hình bệnh lý có thể gia Hoàng kỳ bổ khí, Ô mai liễm âm, tiểu kiết. Những bài thuốc hòa giải gồm có 9 bài chính chia ra thuốc hòa giải Thiếu dương, điều hòa Can Tỳ, điều hòa Trường vị và là bài thuốc trị sốt rét.
Bài thuốc Tiểu Sài hồ thang:
Nguyên bản bài thuốc:
Tiểu sài hồ thang (Thương hàn luận)
Thành phần bài thuốc:
Hoàng cầm 8-12g
Đại táo 4-6 trái
Đảng sâm 8-12g
Sài hồ 12-16g
Chích Cam thảo 4-8g
Bán hạ 8-12g
Sinh khương 8-12g
Cách dùng: Sắc nước uống.
Tác dụng: Hòa giải thiếu dương, sơ can lý tỳ, điều hòa vị tỳ.
Điều trị lâm sàng: Trong bài thuốc vị Sài hồ có tác dụng sơ thông khí cơ thấu đạt tà khí ở thiếu dương là chủ dược, Hoàng cầm tả uất nhiệt ở thiếu dương hợp với Sài hồ chữa chứng hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đầy tức, bứt rứt khó chịu, chứng bệnh thường là do cơ thể hư hoặc chữa nhầm làm tổn thương chính khí, tà khí nhập vào thiếu dương gây bệnh nên thêm các vị Đảng sâm, Cam thảo, đại táo để ích khí điều chung phù chính khu tả, Bán hạ, Sinh khương điều hòa chỉ ẩm, Sinh khương, đại táo cùng dùng có tác dụng điều hòa dinh vệ,hàn nhiệt vãng lai.
Bài thuốc Tiểu sài hồ thang(Thương hàn luận) chủ trị chứng bệnh thiếu dương (Triệu chứng đã nêu ở trên). Trường hợp dùng trị chứng sốt rét do phong hàn gia thêm Thường sơn (sao rượu), Thảo quả . Trường hợp bệnh nhiệt ở thiếu dương nhập vào phần huyết gây sốt thương âm gia thêm Sinh địa, Đan bì, tần giao để lương huyết dưỡng âm, Nếu có triệu chứng ứ huyết, bụng dưới đau dầy (Thường gặp ở sản phụ sau đẻ) Bỏ sâm, thảo, táo gia thêm Diên hồ sách, Đào nhân, Đương quy để hóa ứ. Trường hợp có hàn gia Nhục quế tâm để trừ hàn, có khí trệ gia Hương phụ chế, trần bì, chỉ xác để hành khí
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả.
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Bán hạ có độc gây ngứa, kỵ thai phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý.
Vị thuốc Đan bì kỵ thai khi dùng cần chú ý.
Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi khi dùng cần chú ý.
Vị thuốc Đào nhân hoạt huyết kỵ thai, có thai dùng thận trọng.
Một số tài liệu cho rằng Đẳng sâm phản Lê lô. Chúng tôi không dùng chung Đẳng sâm và Lê lô.
Sinh địa kỵ các thứ huyết, Củ cải, Hành. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Đương quy kỵ thịt heo, Rau dền. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét