MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - ARECA CATECHU L. (CAU)
CAU
Tên khoa học: Areca Catechu L., họ Dừa (Palmae) hoặc họ Cau (Arecaceae).
Tên khác: Binh lang - Tân lang - Aréquier (Pháp) - Areca (Anh).
Mô tả: Cây cau là một cây sống lâu năm, thân mọc thẳng, cao độ 15-20m, đường kính 10-15m, thân tròn, không chia cành, không có lá, có nhiều đốt do vết lá cũ rụng, chỉ ở ngọn mới có một chùm lá to, rộng, xẻ lông chim. Lá có bẹ to. Hoa tự mọc thành buồng, ngoài có mo bao bọc, hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ màu trắng ngà, thơm mát. Trái hạch, hình trứng, to gần bằng trái trứng gà, lúc đầu xanh, vỏ bóng nhẵn, khi già biến thành màu vàng đỏ. Trái bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuộn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn, giữa đáy hơi lõm, mầu nâu nhạt, vị chát.
Cây cau được trồng ở khắp nơi trong nước ta, nhất là Thanh Hóa, Nghệ An. Trồng bằng trái, sau 5-6 năm mới thu hoạch, đó là cau nhà, còn gọi là Gia tân lang, có loại cau tứ thời (Cau bốn mùa), cây thấp đã có trái, ra trái quanh năm.
Cau rừng (Areca oleracea Linn. cùng họ) còn gọi là Sơn tân lang, cây bé, hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Vùng Nghệ An, Thanh Hóa có nhiều. Hiện nay ta thu mua cả hai loại cau nhà và cau rừng.
I. Cau (Hạt)
Hạt trái cau già (Semen Arecae) phơi khô, gọi là Tân lang hay Binh lang (TQ).
Thu hái chế biến: Binh lang: Mùa thu hoạch khoảng tháng 9-13 (không kể loại cau tứ thời) lấy trái thật già, róc bỏ vỏ ngoài và vỏ già, lấy nguyên hạt ở trong đem phơi sấy thật khô.
Binh lang không mùi, vị đắng, chát.
Loại Binh lang hạt già răng ngựa, khô chắc (nặng, chìm trong nước) da màu nâu nhạt, không mốc mọt, nguyên hạt, da ít nhăn nheo là tốt.
Thủy phần an toàn dưới 10p100.
Dược liệu phải chứa ít nhất 0,3p100 alkaloid toàn phần tính theo arecolin (DĐVN - 1977).
Thành phần hóa học: Trong hạt cau có tanin, tỷ lệ trong hạt non độ 10p100 nhưng khi chín chỉ còn 15-20p100. Hoạt chất chính là 4 alkaloid (tỉ lệ độ 0,4p100) chủ yếu là arecolin C8H13NO2 arecaidin C17H11NO2, guvacin C6H9NO2 guvacolin C7H11NO2. Ngoài ra còn có mỡ béo (14p100) các đường (2p100), muối vô cơ và một sắc tố đỏ.
Công dụng:
1. Binh lang: Theo Đông y, vị chát, đắng, cay, tính ấm, vào 2 kinh Vị, Đại trường.
Có tác dụng tẩy giun, làm tiêu chất tích đọng, đưa hơi xuống, lợi tiểu.
Dùng chữa các chứng bệnh giun sán, ăn không tiêu, đầy bụng, tức ngực, tả lỵ, viêm ruột, thủy thũng.
Liều dùng: 3-10g, dùng sống hay có thể sao lửa nhẹ, sắc uống.
Về mặt dược lý, tác dụng của arecolin gần giống các chất pelletierin, pilocarpin, muscarin. Arecolin gây chảy nước bọt rất nhiều và làm tăng bài tiết dịch vị, dịch tràng, làm co nhỏ đồng tử. Dung dịch Arecolin bromhydrat 1p100 có thể dùng để giảm nhãn áp trong bệnh glocom. Với liều nhỏ, arecolin kích thích thần kinh, liều lớn gây liệt thần kinh.
Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới ruột, con sán bị tê liệt không bám vào thành ruột được nữa.
Lưu ý: Người do yếu mệt mà sinh đầy, trẻ em và phụ nữ có thai không được dùng Binh lang.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa đau bụng, đầy bụng, ỉa giun đũa:
Binh lang 5g
Hắc sửu 4g
Lôi hoàn 4g
Mộc hương 4g
Nhân trần 5g
Tạo giác 3g
Chế thành thuốc viên, uống.
Bài số 2: Chữa sán:
Vỏ rễ lựu 40g
Hạt cau 4g
Đại hoàng 4g
Nước 600ml (3 bát) sắc lấy 1 bát, uống sáng sớm, chia làm nhiều lần trong vòng 30 phút, khi đi ngoài ngồi vào chậu nước ấm.
Bài số 3: Chữa sán:
Hạt cau 15g
Sơn tra tươi 500g
(Trẻ em giảm một nửa. Nếu dùng dược liệu khô, người lớn 250mg trẻ em 120g). Sơn tra rửa sạch, bỏ hạt. Từ 3 giờ chiều bắt đầu ăn dần dần, đến 10 giờ tối ăn hết, không ăn cơm tối. Sáng hôm sau, lấy 30g hạt cau, thêm nước, đun sôi lấy 1 chén chè con, uống làm 1 lần, cho hết. Nằm nghỉ trên giường. Khi muốn đại tiện, gắng gượng nhịn một lúc lâu rồi hãy đi đại tiện.
Bài số 4: Tẩy giun đũa, sán:
Hạt cau 15g
Vỏ lựu 9g
Hạt Bí đỏ 9g
Sắc uống. Uống khi đói.
Bài số 5: Chữa hàn thấp, cước khí thời kỳ đầu, chân đùi sưng đau hoặc tức ngực, buồn nôn:
Hạt cau 12g
Mộc qua 9g
Trần bì 4,5g
Cát cánh 6g
Gừng sống 6g
Tía tô 3g
Bài số 6: Chữa khí trệ, đau bụng, đại tiện khó:
Hạt cau - Chỉ thực - Ô dược - Mộc hương: các vị lượng như nhau (Mỗi thứ 6g). Sắc lấy nước đặc uống.
II. Cau (vỏ trái)
Vỏ trái cau già (Pericarpium Arecae) phơi khô, gọi là Đại phúc bì (TQ).
Đã được ghi vào DĐVN (1983), DĐTQ (1997).
Thu hái chế biến: Vỏ quả cau róc ra đem đập cho tơi, ngâm vào nước, vớt ra cho phơi khô rồi lại đập tơi, cho róc lớp da ngoài.
Đại phúc bì: Không mùi, vị nhạt.
Loại đại phúc bì vỏ khô, mềm, màu vàng ngà, không lẫn tạp chất là tốt.
Thành phần hóa học: Cũng chứa các alkaloid như hạt cau: Arecolin, arecaidin, guvacolin, guvacin v.v... nhưng tỷ lệ thấp.
Công dụng:
Đại phúc bì: Theo Đông y, vị cay, tính hơi ấm, vào 2 kinh Tỳ và Vị.
Có tác dụng đưa hơi đi xuống, làm tiêu thoát nước.
Dùng chữa các chứng bệnh thủy thũng cước khí, bụng đầy tức (tác dụng chậm, nhẹ, không mạnh như Binh lang).
Liều dùng: 5-10g. Sắc uống.
Lưu ý: Người thể hư, sức yếu dùng phải cẩn thận.
Bài thuốc:
Bài số 1: Thuốc bột chính khí gia giảm:
Chữa chứng thấp, cản trở tiêu hóa, khí trệ, trướng đầy:
Đại phúc bì 9g
Hạnh nhân 9g
Phục linh bì 12g
Nhân trần 12g
Thần khúc 9g
Mạch nha 9g
Cuống Hoắc hương 6g
Hậu phác 6g
Trần bì 4,5g
Sắc uống.
Bài số 2: Bột Đại phúc bì, chữa chân tay sưng phù:
Đại phúc bì 9g
Mộc qua 9g
Hạt cau 9g
Hạt củ cải (La bạc tử) 9g
Tang bạch bì 9g
Trầm hương 1,5g
Hạt Tía tô 6g
Bông kinh giới 6g
Ô dược 6g
Trần bì 6g
Lá Tía tô 6g
Chỉ xác 6g
Gừng sống 6g
Sắc uống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét