Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - RAUWOLFIA VERTICILLATA (LOUR.) BAIL. (BA GẠC)🌱🌱🌱

    MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - RAUWOLFIA VERTICILLATA (LOUR.) BAIL. (BA GẠC)

Tên khoa học: Rauwolfia verticillata (Lour,) Bail., họ Trúc đào (Apocynaceae).

Tên khác: Ba gạc ta - Lạc toọc (Cao Bằng) Tích tiên (Ba Vì) - La phu mộc (TQ) - San to (Sa Pa) - Rauwolfia (Pháp).

Bộ phận dùng: Rễ cây Ba gạc (Radix Rauwofiae) phơi hay sấy khô.

DĐVN (1997) ghi rễ khô của cây Ba gạc ta (R, Verticillata) và một số loài Rauwolfia khác. Dược điển Pháp 1965 ghi dùng rễ các cây Rauwolfia serpentina (Ba gạc Ấn Độ), R.tetraphylla (Ba gạc Cu Ba), R. vomitoria (Ba gạc Châu Phi) cùng họ.










Mô tả: Cây Ba gạc ta là một cây nhỏ, cao 1-1,5m, thân đứng, trên mặt thân có những lỗ sần nhỏ của bì khổng. Lá nhẵn, lúc còn non có khi mọc đối, thường mọc vàng 3 lá một. Phiến lá hình mũi mác dài hay hơi hình trứng. Hoa mọc thành xim dạng tán kép. Hoa trắng, thơm, ống hình chuông 5 cánh, mùa hoa tháng 5-11. Quả hạch, hình trứng, mọc đối, sóng đôi, khi chín có màu đỏ tươi, mùa quả tháng 6-12.

Cây Ba gạc mọc hoang ở vùng rừng núi nước ta nơi ẩm, ưa ánh sáng, ven rừng Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, khu Tây Bắc. Có thể trồng bằng hạt hay giâm cành.

Về ba cây Ba gạc kể trên:

- Cây Ba gạc châu Phi (Rauwolfia vomitoria afzel ex spreng) là một cây nhỡ, cao 3-4m, phân nhánh nhiều, lá mọc vòng 3-5 cái, phiến lá hình mác hay bầu dục. Hoa nhỏ, nhiều màu trắng, mọc thành xim 2 ngả. Cũng đã gặp ở Phù Ninh (Phú Thọ) có lẽ là cây nhập từ châu Phi, trồng thí điểm còn sót lại (gốc Nigeria, Chine...), rễ đường kính từ 4-9cm.

- Cây Ba gạc Cu Ba (Rauwolfia tetraphylla L.) là cây nhỏ cao 0,40-0,80m, phân cành nhiều, lá mọc vòng 4 cái, hai lá nhỏ, hai lá to. Cây gốc ở vùng Trung Mỹ, nhiều nước cũng có như: Ấn Độ, Trung Quốc. Ta cũng di thực.

- Cây Ba gạc Ấn Độ (Rauwolfia serpentina Benth., họ Trúc đào - Apocynaceae) là một cây nhỏ, cao 0,40-1m, ít cành. Lá mọc vòng 3-4 lá, màu lá vàng lục, phiến lá hình mũi mác mềm, mép lượn sóng, không cứng như lá Ba gạc ta. Hoa mọc thành chùm, màu hồng tím. Quả hạch hình trứng, mọc dính nhau 2 quả một, khi chín màu tím đen. Cây này mọc hoang ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào và một số vùng như Kon Tum, Daklak (Tây Nguyên) nhưng cây này ở ta trữ lượng ít. Ngoài ra ở Việt Nam còn có một số cây Ba gạc khác.

- Ba gạc Châu Đốc (Rauwolfia chaudocenis Pierre ex Pit), là cây gỗ to cao trên 10m, đường kính cỡ 50cm, lá thường mọc vòng 4 cái, mọc hoang ở vùng rừng miền Nam nước ta.

- Ba gạc lá nhỏ (Rauwolfia indochinensis Pichon), cây nhỏ cao độ 0,80cm, lá mọc vòng 3 cái, chủ yếu ở vùng đồi núi và cả ven biển miền Trung, miền Nam nước ta.

Cần nghiên cứu thêm để có thể dùng làm thuốc.

Thu hái chế biến: Rễ đào quanh năm, tốt nhất vào thu đông. Khi trời khô ráo, đào lấy rễ, chặt bỏ phần trên cổ rễ. Đem phơi hoặc sấy khô rồi giũ sạch đất cát. Lớp vỏ chứa nhiều hoạt chất nhất nên cần chú ý bảo vệ, tránh làm xây xát vỏ rễ khi đào và không được ngâm rửa hoặc làm long tróc vỏ rễ khi chế biến phơi sấy.

Rễ Ba gạc không mùi, vị rất đắng. Rễ Ba gạc phải khô cứng, khó bẻ, còn nguyên vỏ ngoài màu nâu, tro, có những đường rãnh nứt nẻ theo chiều dọc. Vỏ rễ mềm xốp, sờ xát dễ bị long tróc. Vỏ rễ và gỗ rễ nhấm kỹ vị rất đắng. Gỗ rễ rất mịn. Rễ Ba gạc phải tương đối sạch đất cát, không bị mốc, không bị sâu mọt.

Rễ trụ, cong queo, đường kính đoạn trên phải dưới 5cm, đoạn dưới thuôn nhọn. Rễ dài độ 40cm, đoạn từ cổ rễ trở lên không được dài quá 3cm (nếu có).

Thủy phần an toàn dưới 13p100.

Bột rễ Ba gạc soi đèn tử ngoại có huỳnh quang màu vàng.

Thành phần hóa học: Trong rễ và lá Ba gạc có alkaloid toàn phần 0,9-1,12p100 (rễ) hoặc gọi là Rauwolfia A có tinh thể hình chữ nhật, độ nóng chảy 178°C, năng suất quay cực 4,83°C (trong cồn metylic). Công thức nguyên C25H28N2O2.

Viện Dược liệu đã xác định là trong rễ Ba gạc ta cũng có những alkaloid: reserpin, serpentin... giống như trong Ba gạc Ấn Độ (Rauwolfia serpentina).

DĐVN tập 1 (1997) quy định: Dược liệu phải chứa ít nhất 0,8p100 alkaloid toàn phần.

Trong rễ Ba gạc Ấn Độ có chừng 28 alkaloid khác nhau 0,5-2p100 alkaloid toàn phần chia làm 2 loại:

1- 2p100 alkaloid có kiềm tính mạnh, dẫn xuất của N-quaternaire mà đại diện là Serpentin C21H20N2O3.

2. Alkaloid có màu vàng, kiềm tính nhẹ nhưu Ajmalin và Reserepin C33H40N2O9. Reserpin có thể như alkaloid quan trọng nhất, tỷ lệ trong rễ 0,004-0,009p100.

Công dụng: Rễ Ba gạc chưa được dùng trong Đông y, mới dùng trong Tây y. Năm 1960, bộ môn Dược lý và Sinh lý trường Đại học Y dược Hà Nội đã dùng nước sắc ba gạc nghiên cứu tác dụng trên thỏ, ếch và đã đi đến một số nhận xét chung như sau:

Nước sắc Ba gạc ta (Rauwolfia verticillata) so với tác dụng của Ba gạc Ấn Độ (R.serpentina) thì giống nhau, chủ yếu là:

- Làm giảm huyết áp do nguồn gốc trung ương, chứ không phải do mạch ngoại biên.

- Làm tim đập chậm.

- Có tác dụng an thần và gây chiều hướng muốn ngủ. Hiện nay chế dưới dạng cao lỏng (Rauticil của Xí nghiệp dược phẩm 1) 1g cao = 1g vỏ rễ Ba gạc để chữa bệnh tăng huyết áp, có tác dụng an thần và chiều hướng gây ngủ. Liều dùng trung bình của cao lỏng Ba gạc: 30 giọt/ ngày, có thể tăng lên 45-60 giọt. Thời gian dùng thuốc có thể kéo dài, nhưng thường sau mỗi đợt 10-15 ngày cần nghỉ 2-4 tuần rồi mới uống tiếp.

Rauwiloid là alkaloid toàn phần của Ba gạc Ấn Độ (Rauwolfia serpentina). Ngày uống 1-3 lần sau bữa ăn, mỗi lần 2mg.

Giải độc gan, giải độc lá ngón:

Dùng 15-20g lá hoặc thân vỏ, rễ để sắc nước uống.

Lưu ý: Vùng Ba Vì (Hà Tây dùng chữa lỵ (uống).

- Tránh lẫn với cây Ba chạc cũng còn gọi cây Ba gạc.

Cây Ba chạc (Evodia Iepta Merr., Evodia tryphylla DC. họ Cam (Rutaceae) là một cây nhỡ, cao 4-5m, cành màu đỏ xám. Lá kép gồm 3 lá chét, phiến lá nguyên, hình mũi mác, có chứa tinh dầu thơm nhẹ dễ chịu, hơi có mùi long não. Hoa tự mọc ở kẽ lá và ngắn hơn lá. Lá và cành tươi nấu nước tắm ghẻ, mụn nhọt, lở loét. Thân và rễ làm thuốc bổ đắng, điều kinh (4-12g dưới dạng thuốc sắc). Trung Quốc gọi là cây Tam a khô, lá uống chữa cảm cúm, đau họng, viêm amidal, viêm gan, viêm não, rễ sắc uống chữa thấp khớp, đau lưng.

- Tác giả J.H Chou cho rằng Rauwolfia Verticillata tác dụng giảm huyết áp mạnh hơn và ít tác dụng phụ hơn R.serpentina.

- Có tác giả cho rằng Reserpin dễ gây ung thư vú đối với phụ nữ.

Bảo quản: Để nơi khô ráo, tránh làm tróc vỏ.

Biệt dược: Alserroxylon - Raubasin - Raudisin - Raunatin - Reserpin - Reserpilin - Reseinamin - Rethizid - Speman forte.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

🌱🌱🌱MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - STELLARIA DICHOTOMA L. VAR. LANCEOLATA BGE (NGÂN SÀI HỒ)🌱🌱🌱

 MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - STELLARIA DICHOTOMA L. VAR. LANCEOLATA BGE (NGÂN SÀI HỒ) NGÂN SÀI HỒ Tên khoa học: Stellaria dichotoma L. var. lanceo...