MỖI NGÀY MỘT LÁ CÂY - POLYGONUM CUSPIDATUM SIEB. ET ZUCC. (CỐT KHÍ)
CỐT KHÍ
Tên khoa học: Polygonum cuspidatum Sieb. et Zucc. họ Rau răm (Polygonaceae).
Tên khác: Hổ trượng căn (TQ) - Ban trượng căn - Hoạt huyết đơn - Tử kim long - Cốt khí củ.
Bộ phận dùng: Thân - Rễ (thường gọi là củ) cây cốt khí (Rhizoma Polygoni cuspidati) phơi khô. Đã được ghi vào DĐTQ (1997).
Mô tả: Cây cốt khí là một cây nhỏ, sống lâu năm, cai 0,50 - 1m, thân nhỏ yếu, đường kính độ 4mm, trên thân và cành thường có những đốm màu tím hồng.
Lá mọc so le, phiến lá hình trứng rộng, đầu trên hơi thắt nhọn, phía cuống hơi phẳng hoặc hơi hẹp lại, mép nguyên, dài 5-12cm, rộng 3,5-8cm, cuống 1-3cm, có bẹ chia ngăn, mặt trên màu xanh nâu đậm, mặt dưới màu nhạt hơn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá, mang rất nhiều hoa nhỏ, cánh hoa màu trắng, hoa khác gốc, hoa đực có 8 nhị, hoa cái có bầu hình trứng với 3 cạnh, 3 núm. Trái khô 3 cạnh, màu nâu đỏ (ở đồng bằng ra hoa tháng 8-9, ra trái tháng 9-10).
Cây cốt khí ưa ẩm, mọc hoang ven đường và vùng đồi núi: nhiều nhất ở Lào Cai, Hải Hưng, Hòa Bình, Ninh Bình, thường các gia đình đều trồng một ít để dùng làm thuốc, trồng bằng rễ củ, rất dễ mọc.
Thu hái chế biến: Mùa thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào tháng 8 - 9 (có nơi thu hái tháng 2-3). Đào lấy rễ rửa sạch đất cát, bỏ rễ con, phơi khô. Có thể thái thành phiến mỏng. Cốt khí không mùi, vị hơi đắng.
Loại cốt khí khô, thịt vàng, có nhiều bột, không mốc mọt, vụn nát là tốt. Để nguyên to đường kính trên 2cm, hoặc thái vát thành phiến mỏng dưới 4mm.
Tránh nhầm lẫn với cây Cassia occidentalis họ đậu (Fabaceae) nhiều nơi gọi là Cốt khí muồng - Đậu săn (Tên khác: Vọng giang nam, Dương giác đậu).
Cây Cốt khí muồng là một cây nhỏ cao 0,60-1m, thân phía dưới hóa gỗ. Lá mọc so le, lá kép lông chim chẵn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hay đầu cành, 5 cánh màu vàng nhạt. Trái loại đậu: dài 6-10cm, rộng 7mm, hơi cong hình cung, giữa các hạt hẹp lại làm cho trái tựa như thành đốt.
Thành phần hóa học: Trong rễ cốt khí có chất anthraglucosid: chủ yếu là Emodin hay Rheum emodn C15H10O5, Emodin monometyl ete C15H10O5 dưới dạng tự do kết hợp. Ngoài ra còn có tanin và polygonin C21H20O10. Tỷ lệ oxy - methylanthraquinon trong rễ củ cốt khí là 3 - 4p100.
Công dụng: Theo kinh nghiệm nhân dân ta dùng cốt khí với tác dụng giảm đau, chủ yếu chữa tê thấp, đau nhức gân xương, hoặc bị ngã, đau bị đánh có thương tích.
Theo các tài liệu Trung Quốc, cốt khí có tác dụng thông kinh lạc, lợi tiểu, giải độc. Dùng chữa rắn cắn, bí đái, viêm gan, phụ nữ tắc kinh, đẻ xong bị máu ứ hoặc bị đau bụng.
Liều dùng: 6-10g. Sắc uống hoặc ngâm rượu. Có thể dùng sống hay sao vàng. Thường phối hợp với Uy linh tiên, Phòng kỷ.
Lưu ý: Phụ nữ có thai không được dùng.
Bảo quản: Cốt khí rễ bị mọt, cần để nơi khô ráo, thoáng gió.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét